Những qui định mới quan trọng trong Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Kinh doanh bảo hiểm vừa được Quốc hội thông qua

(PLBQ) - Ngày 16/6, Quốc hội đã thông qua nhiều Nghị quyết và Luật quan trọng điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực kinh tế doanh nghiệp. Sau đây Pháp lý xin giới thiệu những qui định mới quan trọng trong Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi). Đặc biệt là những qui định mới trong Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi tạo hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Doanh nghiệp bảo hiểm không được đầu tư kinh doanh BĐS

Dừng trích nộp Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm; Dành một chương riêng về Bảo hiểm vi mô; Doanh nghiệp bảo hiểm không được đầu tư kinh doanh bất động sản…- là 3 trong số những qui định mới, bổ sung trong Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi kì này.

dai-bieu-quoc-hoi-1655363753.jpg
Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi). (nguồn ảnh: nhandan.vn)

Theo đó, Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua quy định, kể từ ngày 1/1/2023, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài dừng trích nộp Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm.

Toàn bộ số dư của Quỹ được Bộ Tài chính quản lý để sử dụng cho mục đích bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán hoặc phá sản. Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết về quản lý và sử dụng số dư của Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm.

Trước đó, trong phiên thảo luận ở hội trường về dự án Luật ngày 27/5, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, việc duy trì Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm là không cần thiết bởi sau gần 12 năm trích nộp, quỹ này chưa phải sử dụng và ít có khả năng phải sử dụng, trong khi vẫn duy trì một quỹ khác có chức năng, mục đích tương tự, đó là Quỹ dự trữ bắt buộc.

Theo các đại biểu, việc duy trì hai quỹ song song sẽ tạo gánh nặng cho doanh nghiệp và cho cả người được bảo hiểm vì các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, nếu duy trì hai quỹ trong quá trình thực thi, trường hợp phải sử dụng nguồn quỹ trên để thanh toán cho người được bảo hiểm sẽ còn phát sinh thêm vấn đề phân chia tỷ lệ chi trả của từng quỹ, mỗi quỹ bao nhiêu phần trăm.

Về bảo hiểm vi mô, Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, bảo hiểm vi mô không phải là một sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà là các sản phẩm bảo hiểm hướng tới đối tượng khách hàng là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, khó tiếp cận với các sản phẩm bảo hiểm thương mại thông thường. Các sản phẩm bảo hiểm vi mô có thể thuộc một trong ba loại hình (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe) hoặc kết hợp các quyền lợi của cả ba loại hình bảo hiểm này.

Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) cũng dành riêng Chương V nói về Bảo hiểm vi mô, quy định rõ đặc điểm của sản phẩm vi mô; việc xây dựng, thiết kế, phát triển sản phẩm bảo hiểm vi mô; tổ chức cung cấp bảo hiểm vi mô; doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài cung cấp bảo hiểm vi mô; tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô; điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô; và nguyên tắc hoạt động của tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô.

Cụ thể, việc triển khai và tham gia các sản phẩm bảo hiểm vi mô được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thông qua một hoặc một số biện pháp quy định tại các điểm a, b, d và e khoản 1 Điều 88 của Luật này.

Tổ chức cung cấp bảo hiểm vi mô bao gồm: doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam; tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô thành lập và hoạt động tại Việt Nam.

Luật quy định rõ, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô chỉ được cung cấp bảo hiểm vi mô cho chính các thành viên của mình. Thành viên tham gia bảo hiểm vừa là chủ sở hữu của tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô, vừa là bên mua bảo hiểm. Toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động cung cấp bảo hiểm vi mô của tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô được sử dụng để phục vụ lợi ích cho các thành viên tham gia bảo hiểm thông qua việc giảm trừ phí bảo hiểm, gia tăng quyền lợi bảo hiểm của người được bảo hiểm, hỗ trợ cho các thành viên và các mục tiêu khác theo điều lệ của tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô.

Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2023. Khoản 3 Điều 86, khoản 4 và khoản 5 Điều 94, Điều 95, khoản 3 và khoản 4 Điều 99, các điều 109, 110, 111, 112, 113, 114 và 116 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2028.

Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi có điểm đáng chú ý là doanh nghiệp bảo hiểm không được đầu tư kinh doanh bất động sản, trừ trường hợp mua cổ phiếu của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán, chứng chỉ quỹ của quỹ đại chúng.

Doanh nghiệp bảo hiểm cũng không được kinh doanh bất động sản trực tiếp, nhưng sẽ được mua, đầu tư, sở hữu bất động sản để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ; cho thuê trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng.

Đồng thời, được nắm giữ bất động sản do xử lý trái phiếu có bảo đảm bằng bất động sản, do đối trừ công nợ phải thu bằng bất động sản trong thời hạn 3 năm. Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết về hạn mức đầu tư mua cổ phiếu, chứng chỉ quỹ để bảo đảm thận trọng, tránh rủi ro đầu cơ bất động sản.

Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) cũng quy định, doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm khi đầu tư ra nước ngoài phải tách biệt việc đầu tư và không được dùng tiền, tài sản của bên mua bảo hiểm trong nước để bù đắp lỗ, thiếu hụt tiền của hoạt động đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Đối với người trực tiếp thực hiện hoạt động môi giới bảo hiểm, luật quy định phải có văn bằng từ đại học trở lên về chuyên ngành bảo hiểm hoặc có chứng chỉ bảo hiểm phù hợp với loại hình bảo hiểm, hoặc chứng chỉ môi giới bảo hiểm do các cơ sở đào tạo được thành lập và hoạt động hợp pháp trong hoặc ngoài nước cấp theo quy định của bộ trưởng Bộ Tài chính.https://www.avoadsservices.com/adserver/www/delivery/lg.php?bannerid=145&campaignid=46&zoneid=19&loc=https%3A%2F%2Ftuoitre.vn%2F&cb=6c0e6d3042

Báo cáo giải trình, tiếp thu trước khi Quốc hội bấm nút thông qua, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho hay, có ý kiến cho rằng việc tổ chức thi, cấp, cấp đổi, thu hồi chứng chỉ bảo hiểm... nên để tổ chức xã hội nghề nghiệp tham gia thực hiện. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy, do kinh doanh bảo hiểm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

"Để bảo đảm chất lượng đầu ra của nguồn nhân lực, cần thiết phải có sự kiểm soát chặt chẽ việc tổ chức thi và cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm, chứng chỉ môi giới bảo hiểm tương tự như quy định đối với lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán", ông Thanh nói.

Hoàn thiện hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ 

cac-dai-bieu-quoc-hoi-bieu-quyet-thong-qua-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-so-huu-tri-tue-sang-1655363887.jpg
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, sáng 16/6. ( nguồn ảnh nhandan.vn)

Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi lần này nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, kế thừa giá trị của các văn bản pháp luật đã được ban hành, đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể gồm người sáng tạo, bên sử dụng, công chúng thụ hưởng; bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ, tiếp cận các giá trị văn hóa, nghệ thuật, khoa học và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; khuyến khích tổ chức, cá nhân sáng tạo, đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu trong các lĩnh vực; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn 16 năm thi hành Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, đặc biệt luật hóa cam kết tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA, Hiệp định RCEP...

Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi được thông qua tập trung vào 7 nhóm chính sách lớn gồm: Quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan; khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng được tạo ra từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước; tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp; bảo đảm mức độ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập.

Một trong những nội dung quan trọng và nổi bật của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, thu hút được nhiều sự quan tâm, ý kiến góp ý của đại biểu Quốc hội là quy định trao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì một cách tự động và không bồi hoàn; đồng thời có cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả phù hợp với với tinh thần của Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Quy định này không chỉ khắc phục các bất cập hiện này về việc đăng ký và khai thác các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ do nhà nước đầu tư mà còn là cú hích để khuyến khích các chủ thể nghiên cứu nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ động đăng ký, khai thác các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng được tạo ra; thúc đẩy quan hệ hợp tác với doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ, thương mại hóa và thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư để phát triển, nghiên cứu sản phẩm, ….

Liên quan đến chỉ dẫn địa lý, Luật Sở hữu trí tuệ không sửa nhiều về chỉ dẫn địa lý nhưng lại bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết về quản lý chỉ dẫn địa lý bởi trong khoảng 10 năm trở lại đây, việc thúc đẩy bảo hộ chỉ dẫn địa lý được các cấp các ngành quan tâm. Đến nay, Việt Nam đã có khoảng 100 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ. Một số sản phẩm cũng đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài như: Vải thiều Lục Ngạn (được bảo hộ ở Nhật Bản) cho thấy chỉ dẫn địa lý có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho người nông dân, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Vì vậy, Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành đã quy định rõ về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, trình tự, thủ tục, tuy nhiên quản lý chỉ dẫn địa lý như thế nào thì dường như chưa có quy định nên việc bổ sung quy định giao cho Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn việc thực hiện quyền quản lý chỉ dẫn địa lý nhằm tạo cơ sở để Chính phủ quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về việc quản lý và sử dụng chỉ dẫn địa lý như các vấn đề liên quan tới ban hành văn bản hay quy chế quản lý chỉ dẫn địa lý, nội dung quản lý nhà nước về chỉ dẫn địa lý (đâu là nội dung mang tính chất quản lý tài sản, đâu là nội dung mang tính hướng dẫn tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý, quyền và trách nhiệm của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý... ).

Việc quy định cụ thể hơn về quản lý sử dụng chỉ dẫn địa lý sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý, kiểm soát chặt chẽ hơn việc sử dụng chỉ dẫn địa lý vì hiện nay có tình trạng sử dụng chỉ dẫn địa lý, sử dụng địa danh tràn lan, không kiểm soát được. 

Liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung một số quy định về các quyền độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng liên quan đến môi trường số như truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác... Ngoài ra, Luật cũng sửa đổi, bổ sung quy định đối với biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, thông tin quản lý quyền; trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian, theo đó bổ sung quy định trường hợp các doanh nghiệp này được miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan cũng như trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền trong thực thi quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường số; Sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi xâm phạm liên quan đến biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, thông tin quản lý quyền, trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2023, trừ quy định về bảo hộ nhãn hiệu là dấu hiệu âm thanh có hiệu lực thi hành từ ngày 14/1/2022, trong khi quy định về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm dùng cho nông hóa phẩm có hiệu lực thi hành từ ngày 14/1/2024.

Về trách nhiệm pháp lý về quyền tác giả, quyền liên quan đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian, có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn phạm vi miễn trừ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian quy định tại khoản 3 Điều 198b là bồi thường thiệt hại bằng tiền và chi trả án phí, lệ phí trong trường hợp khởi kiện ra Tòa án. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhấn mạnh, quy định tại Điều 198b của dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở nội luật hóa quy định tại Điều 12.55 của Hiệp định EVFTA. Điều này không giới hạn phạm vi miễn trừ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian về bồi thường thiệt hại bằng tiền và chi trả án phí, lệ phí. Quy định miễn trừ trách nhiệm pháp lý về bồi thường thiệt hại bằng tiền chỉ được quy định tại Điều 18.82 của Hiệp định CPTPP nhưng nội dung này đang tạm đình chỉ thực hiện. Vì vậy, để thuận lợi trong quá trình thực thi điều ước quốc tế, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, xin tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, chỉnh lý khoản 6 Điều 198b theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này, bao gồm cả phạm vi miễn trừ, như thể hiện trong dự thảo Luật.

Về khả năng phân biệt của nhãn hiệu; kiểm soát an ninh đối với sáng chế trước khi nộp đơn đăng ký ở nước ngoài, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “có dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm” tại điểm p khoản 2 Điều 74 để thống nhất với các quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội bỏ cụm từ “có dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm” tại điểm p khoản 2 Điều 74; đồng thời cho rằng tác phẩm là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả, do đó, để phù hợp với bản chất độc quyền của quyền tác giả thì việc quy định nhãn hiệu “có dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm” mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu thì nhãn hiệu đó bị từ chối bảo hộ là cần thiết. Vì vậy, để bảo đảm tính chính xác, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho phép bổ sung cụm từ “có dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm” vào khoản 7 Điều 73 của dự thảo Luật.

Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 4 của dự thảo Luật quy định chuyển tiếp về kiểm soát an ninh đối với sáng chế quy định tại Điều 89a. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội và bổ sung nội dung này vào khoản 3 Điều 4 của dự thảo Luật.

Về chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ; từ chối cấp văn bằng bảo hộ; khiếu nại và giải quyết khiếu nại liên quan đến các thủ tục về sở hữu công nghiệp, có ý kiến đề nghị chỉnh lý điểm h khoản 1 Điều 95 theo hướng bổ sung cụm từ “đặc biệt là” vào trước cụm từ “về bản chất, chất lượng hoặc nguồn gốc chỉ dẫn địa lý” để thống nhất với quy định của Hiệp định EVFTA. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Quy định tại điểm h khoản 1 Điều 95 chỉ yêu cầu chấm dứt hiệu lực của nhãn hiệu đối với 3 trường hợp là gây nhầm lẫn về bản chất, chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, bởi vì các trường hợp gây nhầm lẫn khác về nhãn hiệu đã được điều chỉnh bởi các quy định tại các điều, khoản khác trong Luật Sở hữu trí tuệ như về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu (các điều 72, 73 và 74), hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu (Điều 129), hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 130)... Vì vậy, quy định như dự thảo Luật đã bảo đảm nội luật hóa đầy đủ Hiệp định EVFTA.

Có ý kiến cho rằng quy định về từ chối cấp văn bằng bảo hộ quy định tại điểm d khoản 3 Điều 117 là chưa tương thích với Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Nghị định thư và Thỏa ước Madrid, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và chỉnh lý lại nội dung này tại Điều 117 và Điều 118 của dự thảo Luật.

Về Điều 119a, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “lần đầu” tại khoản 3 để thống nhất hình thức nộp đơn khiếu nại; bổ sung vào khoản 6 thẩm quyền giải quyết khiếu nại, thời hiệu giải quyết khiếu nại; quy định chỉ trong trường hợp sửa đổi, bổ sung hồ sơ khiếu nại theo yêu cầu của người nộp đơn thì mới không tính vào thời hạn giải quyết khiếu nại. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu các ý kiến nêu trên và thể hiện tại Điều 119a của dự thảo Luật.

Về hành vi cạnh tranh không lành mạnh; các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả, có ý kiến đề nghị bổ sung hành vi “đăng ký”, thay từ “và” bằng từ “hoặc” tại điểm d khoản 1 Điều 130. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và viễn thông không cản trở việc đăng ký và giữ chỗ tên miền theo cơ chế “đăng ký trước được trước” và cơ chế này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, nếu chỉ với hành vi đăng ký tên miền thì chưa thể hiện được ý đồ xấu của người đăng ký; chỉ khi việc đăng ký thành công và người đăng ký đã chiếm hữu tên miền, đồng thời có các hành vi thể hiện “dụng ý xấu, lợi dụng uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng nhằm thu lợi bất chính” thì mới cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, đề nghị không bổ sung cụm từ “đăng ký” vào điểm d khoản 1 Điều 130. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, để bảo đảm bao quát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thực tiễn, thay từ “và” bằng dấu phẩy (,) tại điểm d khoản 1 Điều 130 của dự thảo Luật.

Có ý kiến cho rằng quy định về biện pháp khắc phục hậu quả tại khoản 2 Điều 214 là chưa thống nhất với Luật Xử lý vi phạm hành chính. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, quy định tại khoản 2 Điều 214 của dự thảo Luật là biện pháp đặc thù trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nhằm tận dụng hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn giá trị sử dụng, tránh gây lãng phí và đã được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều được áp dụng biện pháp này mà phải đáp ứng các điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, để bảo đảm chặt chẽ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung nội dung “và đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của Chính phủ” vào cuối khoản 2 Điều 214 của dự thảo Luật.

Lê Phúc

Link nội dung: https://phapluatbanquyen.phaply.vn/nhung-qui-dinh-moi-quan-trong-trong-luat-so-huu-tri-tue-va-luat-kinh-doanh-bao-hiem-vua-duoc-quoc-hoi-thong-qua-a1045.html