Pháp luật về phát triển kinh tế xanh của một số nước và những gợi mở cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh là một xu thế tất yếu, vừa đảm bảo mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, vừa phát triển bền vững về môi trường và tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Từ kinh nghiệm chính sách của các quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều để sớm xây dựng một số đạo luật xanh như Luật Tăng trưởng xanh, Luật Mua sắm xanh…phục vụ cho phát triển kinh tế xanh, bền vững ở Việt Nam

1-1706156422.jpg

Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa nền "kinh tế xanh” là: “Nền kinh tế nâng cao đời sống con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”. Nói một cách đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. 

Đan Mạch – Quốc gia đi đầu trong phát triển xanh

Đan Mạch là quốc gia Bắc Âu có mục tiêu tham vọng trở thành “quốc gia xanh” nhất tại châu Âu và trên thế giới. Theo chiến lược năng lượng đến 2035, Đan Mạch sẽ hoàn toàn từ bỏ sử dụng nguyên liệu hoá thạch trong ngành công nghiệp năng lượng. Tất cả năng lượng điện và năng lượng nhiệt sẽ được cung cấp bởi các nguồn nhiêu liệu tái tạo.

Là một nước xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt nhưng Đan Mạch lại hướng tới phát triển xanh bởi quốc gia này mong muốn cải thiện môi trường châu Âu và trên thế giới; đảm bảo an ninh năng lượng; tạo nhiều việc làm.

Tại Đan Mạch, chính quyền hướng tới chuyển đổi xanh với 3 trụ cột chính là xe đạp, năng lượng gió và xử lý rác thải. Từ những năm 1960, thủ đô Copenhagen đã đưa ra sáng kiến hình ​​thành văn hóa đi xe đạp, thông qua việc hạn chế đậu xe trong trung tâm thành phố, tăng thuế xe hơi và khí đốt, đồng thời lắp đặt giá treo xe đạp, làn đường và đèn giao thông.

Đan Mạch là quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ gió và đặt mục tiêu biến Copenhagen trở thành thủ đô trung hòa các-bon đầu tiên trên thế giới vào năm 2025.

Để hiện thực hoá tham vọng của mình, Đan Mạch đã thông qua mức thuế đặc biệt với việc xử lý chất thải, bao gồm cả mức phí xử lý chất thải xây dựng. Đồng thời, chi tiêu công cho các sản phẩm hàng hoá do nhà nước điều chỉnh nhằm giảm thiểu lượng rác sinh hoạt và việc sản xuất quá nhiều bao bì hàng hoá.

20% tổng tiêu thụ năng lượng ở Đan Mạch là năng lượng gió. Các nhà sản xuất cối xay gió đạt được thành công đột phá về mặt công nghệ, nên chi phí sản xuất năng lượng gió tương đương với sản xuất điện ở nhà máy nhiệt điện. Đan Mạch là quốc gia đầu tiên trên thế giới đạt 1/3 điện năng tiêu thụ từ turbin gió.

Ngoài năng lượng gió, Đan Mạch còn phát triển ngành sản xuất khí biogas tại nhà máy ở Zealand, cho phép sản xuất hàng ngày khoảng 6.000m­3 từ 135 tấn rác thải sinh học (1m3 khí sinh học tương đượng với 0,6l dầu).

Đối với ngành xây dựng, Đan Mạch quyết tâm xây những toà nhà có có lượng carbon đioxin vô hại đối với môi trường. Tại các công trình nhà ở, xây dựng, Đan Mạch tiến hành lắp đặt các cửa sổ lớn, sao cho các phòng nhận được tối đa ánh sáng. Hạn chế sử dụng điện bằng việc lắp đặt bóng đèn tiết kiệm điện. Trên mái, bên các bức tường hay ban công được lắp đặt tấm pin mặt trời, chuyển đổi năng lượng thành nhiệt điện. Người dân có thể tự tạo ra năng lượng xanh và bán năng lượng dư thừa cho hệ thống năng lượng quốc gia.

Điều đặc biệt ở Đan Mạch là người dân có thể tự đầu tư thiết bị của mình vào xây dựng tạo thu nhập, cũng như trang trải chi phí sử dụng năng lượng cho tương lai. Chính phủ còn thông qua đề án “Bạn phải trả đúng bằng những gì bạn thải ra môi trường”. Theo đó, các công ty phải đóng thuế do trực tiếp xả khí thải ra môi trường.

2-1706156591.jpg

Phát triển kinh tế xanh là một xu thế tất yếu

Mỹ sử dụng Bộ chỉ số về phát triển kinh tế xanh để đánh giá và kiểm soát nền kinh tế xanh

Mỹ đã đưa chính sách biến đổi khí hậu thành một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia và thực hiện các biện pháp như biện pháp hỗ trợ tài chính ở quy mô chưa từng có. Các chính sách phát triển công nghệ đổi mới, đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Mỹ sử dụng Bộ chỉ số về phát triển kinh tế xanh để đánh giá và kiểm soát nền kinh tế xanh, các chỉ số như:

(i) Điểm hành động và chính sách kinh tế xanh: Các tiêu chí đánh giá cho điểm hành động và chính sách kinh tế xanh như: Tiểu bang có tiêu chuẩn năng lượng tái tạo hoặc năng lượng sạch hay không; liệu Tiểu bang có mục tiêu phát thải khí nhà kính hay không; liệu tiểu bang có thông qua luật khí hậu quan trọng trong 4 năm qua hay không...

(ii) Thu hồi, sử dụng và lưu trữ các bon; (iii) Phương tiện chạy điện, tiêu chí đánh giá tiềm năng tăng trưởng của lĩnh vực sử dụng năng lượng hiệu quả; (iv) Tiết kiệm năng lượng, các công nghệ tiết kiệm năng lượng như đèn LED, hệ thống sưởi và làm mát tái tạo; (v) Lưu trữ năng lượng, các công nghệ lưu trữ năng lượng. Các tiêu chí đánh giá về tiềm năng tăng trưởng của lĩnh vực lưu trữ năng lượng; (vi) Hiện đại hóa lưới điện, để cải thiện lưới điện xem xét một cách tổng thể ở một loạt các chỉ số có trọng số; (vii) Chỉ số Hydro, xem xét các cơ hội về hydro xanh và các dự án có tiềm năng chuyển đổi sang hydro xanh; (viii) Chuyển đổi chất thải thành năng lượng: Các tiêu chí đánh giá chuyển đổi chất thải thành năng lượng kết hợp hiệu suất của tiểu bang trong các lĩnh vực khí sinh học, giao thông vận tải và sinh khối.

3-1706156591.jpg

Nhiều nước đang thúc đẩy chiến lược và ban hành các đạo luật về phát triển kinh tế xanh

Nhật Bản và chiến lược đặc biệt cho tăng trưởng xanh

Ở Nhật Bản, vào đầu thập kỷ này, Chính phủ Nhật Bản tuyên bố giảm 46% lượng khí thải nhà kính vào năm tài khóa 2030 và được mức trung hòa các-bon vào năm 2050. Để đạt được mục tiêu này, cần phải có sự nỗ lực của cả khu vực công và khu vực tư. Điều quan trọng là những nỗ lực này dẫn đến tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản và tạo ra một chu kỳ về tăng trưởng xanh.

Với những hạn chế lớn về địa lý, không giàu tài nguyên năng lượng, Nhật Bản hướng tới mục tiêu đạt được mức trung hòa các-bon vào năm 2050. Các chiến lược của Nhật Bản gồm: Thúc đẩy mạnh mẽ các sáng kiến chủ động của cộng đồng doanh nghiệp; Huy động các nguồn lực chính sách hướng tới một chu kỳ lành mạnh của nền kinh tế và môi trường; Chính sách khí hậu và năng lượng, chiến lược tăng trưởng được giải quyết một cách tích hợp như một chiến lược và chính sách quốc gia; Các nguồn lực cần được huy động theo chiến lược tăng trưởng xanh; Thúc đẩy các sáng kiến trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông và tiêu dùng.

Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cung cấp các biện pháp hỗ trợ chính sách, bao gồm tăng cường các khoản trợ cấp và lợi ích về thuế khác nhau để hỗ trợ các sáng kiến chủ động của doanh nghiệp; Đảm bảo nguồn cung cấp hydro ổn định, chi phí thấp và thúc đẩy ứng dụng rộng rãi; Nguồn tài chính cho lĩnh vực biến đổi khí hậu; Thúc đẩy ngoại giao trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.

Singapore với chính sách phát triển kinh tế xanh 5 trụ cột chính

Nhắc tới phát triển kinh tế xanh ứng phó với biến đổi khí hậu ở khu vực châu Á, Singapore được xem như hình mẫu với những thành tựu đáng kể. Là quốc gia thiếu thốn nguồn tài nguyên, đảo quốc sư tử ý thức mạnh mẽ về phát triển bền vững và giảm phát thải.

 Ngay từ rất sớm, Chính phủ Singapore đã ban hành chính sách phát triển kinh tế xanh. Gần đây nhất là vào năm 2021, ban hành Kế hoạch Xanh hướng tới năm 2030. Kế hoạch Xanh vạch ra các mục tiêu đầy tham vọng và cụ thể trong thập kỷ tới, củng cố các cam kết của Singapore theo Chương trình nghị sự phát triển bền vững năm 2030 của Liên hợp quốc và Thỏa thuận Paris. Theo đó, một “phong trào toàn quốc” nhằm thúc đẩy chương trình nghị sự quốc gia về phát triển bền vững và đạt mục tiêu không phát thải ròng "càng sớm càng tốt".

Một số sáng kiến ​​mới trong kế hoạch này như cho đến năm 2030 tất cả ô tô đăng ký mới phải là xe năng lượng sạch và tăng hơn gấp đôi số trạm sạc xe điện. Singapore đã nâng công suất năng lượng mặt trời lên hơn 7 lần kể từ năm 2015 và là một trong những quốc gia có mật độ năng lượng mặt trời cao nhất trên thế giới. Tháng 7/2021, Singapore đưa vào hoạt động một trong những trang trại điện mặt trời nổi lớn nhất toàn cầu, gồm 120 nghìn tấm pin mặt trời tại hồ Tengeh với công suất tối đa đạt 60 MW.

4-1706156592.jpg

Đảo quốc Sư tử Singapore nổi tiếng là thành phố sạch nhất thế giới (Ảnh minh họa)

Kế hoạch xanh của Singapore có năm trụ cột chính với sự quản lý của 05 cơ quan là Bộ Giáo dục, Bộ Phát triển Quốc gia, Bộ Môi trường và Bền vững, Bộ Thương mại và Công nghiệp, Bộ Giao thông Vận tải và được hỗ trợ bởi toàn bộ Chính phủ với các nội dung: (i) Thành phố trong tự nhiên, nhằm tạo ra những ngôi nhà xanh, đáng sống và bền vững cho người dân (ii) Cuộc sống bền vững, nhằm hướng tới việc giảm lượng khí thải các-bon, giữ cho môi trường trong sạch, tiết kiệm tài nguyên và năng lượng trở thành một phong cách sống (iii) Tái tạo năng lượng, nhằm sử dụng năng lượng sạch hơn và tăng hiệu quả sử dụng năng lượng để giảm khí thải các-bon (iv) Nền kinh tế xanh, nhằm tìm kiếm các cơ hội tăng trưởng xanh để tạo việc làm mới, chuyển đổi các ngành công nghiệp và khai thác tính bền vững như một lợi thế cạnh tranh và (v) Tương lai kiên cường, nhằm xây dựng khả năng phục hồi khí hậu và tăng cường an ninh lương thực.

Để đạt được những trụ cột này, Chính phủ Singapore đã đưa ra một loạt các sáng kiến và biện pháp hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, năng lượng, tài chính xanh, du lịch bền vững và giao thông đường bộ… Cụ thể:

Nhằm khuyến khích các công ty trong tất cả các lĩnh vực giảm lượng khí thải, tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi của Singapore sang nền kinh tế với hàm lượng các-bon thấp, từ tháng 1/2019, Singapore đã áp dụng thuế các-bon và trở thành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á áp dụng thuế này.

Năm 2023, theo Kế hoạch Xanh thì Singapore tiến hành rà soát thuế các-bon. Nguồn thu từ thuế sẽ được Chính phủ Singapore tái đầu tư để tài trợ cho các biện pháp giảm phát thải. Thuế suất được ấn định thấp và áp dụng trong phạm vi hẹp để thị trường có thời gian thích nghi. Thuế được đánh trực tiếp vào các cơ sở trực tiếp thải ra ít nhất 25.000 tấn khí thải nhà kính hàng năm.

Phát triển các ngành mới và giúp các doanh nghiệp nắm bắt cơ hội trong nền kinh tế xanh nhằm đưa Singapore trở thành quốc gia dẫn đầu trong các lĩnh vực. Cụ thể, Chương trình Doanh nghiệp bền vững (ESG) là một phần trong nỗ lực của Chính phủ Singapore nhằm trao quyền, đầu tư vào các công ty đối tác cũng như cộng đồng trong quá trình chuyển đổi xanh. ESG đã khởi động Chương trình Bền vững doanh nghiệp trị giá 180 triệu đô la Singapore để hỗ trợ các công ty Singapore, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong hành trình phát triển bền vững của họ và nắm bắt các cơ hội trong nền kinh tế xanh để duy trì tính cạnh tranh trong nền kinh tế địa phương, toàn cầu. Sự hỗ trợ tập trung vào phát triển các năng lực bền vững trong doanh nghiệp, tăng cường các năng lực cụ thể của ngành và thúc đẩy một hệ sinh thái bền vững sôi động và thuận lợi.

Đặc biệt, Singapore tích cực ký kết các thỏa thuận song phương liên quan đến phát triển nền kinh tế xanh với các đối tác thương mại lớn của quốc gia này như Vương quốc Anh, Australia, Việt Nam, Malaysia. Qua đó giúp Singapore khử các-bon cũng như giúp doanh nghiệp và người lao động nắm bắt cơ hội trong nền kinh tế xanh.

Hàn Quốc và Luật Tăng trưởng xanh

Những cải cách mạnh mẽ khiến Hàn Quốc trở thành một cường quốc về công nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, Hàn Quốc đang là nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới, trở thành hình mẫu lý tưởng của một quốc gia phát triển có xuất phát điểm là một trong các nước thuộc “Thế giới thứ Ba”.

Về phát triển kinh tế xanh, Hàn Quốc thuộc nhóm quốc gia duy nhất được công nhận rộng rãi đã triển khai thực hiện phát triển kinh tế xanh trên quy mô toàn quốc bằng cách thiết lập các mục tiêu đầy tham vọng và thực hiện các kế hoạch hành động. Có rất nhiều yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế xanh tại quốc gia này, nhưng chính yếu vẫn xuất phát ý chí chính trị mạnh mẽ của nhà nước, đặt mục tiêu phát triển kinh tế xanh với các-bon thấp làm tầm nhìn quốc gia với hy vọng sẽ phát triển bền vững tạo điều kiện để đất nước vượt lên trên, trở thành một thế lực “xanh” trong quan hệ quốc tế . Hội đồng Quốc vụ Hàn Quốc thông qua chiến lược tăng trưởng xanh, kỳ vọng đưa Hàn Quốc là 1 trong năm cường quốc kinh tế xanh của thế giới vào năm 2050.

Để triển khai nội dung này, Hàn Quốc tập trung vào các lĩnh vực được ưu tiên như: tập trung xử lý nguồn chất thải, quản lý nguồn nước thải, triển khai gói Kích cầu xanh… 

Đáng chú ý, Hàn Quốc đã ban hành đạo luật xanh. Năm 2010, Hàn Quốc ban hành Luật Tăng trưởng xanh, đây được nhận định là đạo luật quy định bao quát tất cả các vấn đề có liên quan đến năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế bền vững... Theo đó, Điều 1 của Luật Tăng trưởng xanh đã đề ra định hướng phát triển xanh được thể hiện qua các mục tiêu như: (i) tạo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường thông qua thiết lập nền tảng cho phát triển các-bon thấp và phát triển kinh tế xanh, (ii) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc thực hiện công nghiệp xanh và phát triển công nghệ xanh như là động lực của tăng trưởng; (iii) đóng góp cải thiện chất lượng cuộc sống; (iv) biến Hàn Quốc thành quốc gia phát triển và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế thông qua việc hiện thực hóa xã hội các-bon thấp.

Trên tinh thần đạo luật này, Hàn Quốc cũng đã tiên phong thành lập Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) với chức năng hỗ trợ các quốc gia đang phát triển trong việc thiết lập các chính sách phát triển kinh tế xanh thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc, đưa ra các kết quả nghiên cứu chất lượng cao cho các nhà hoạch định chính sách và xây dựng mạng lưới phát triển kinh tế xanh.

Trung Quốc và hệ thống thuế xanh

Hiện Trung Quốc đang là quốc gia có lượng phát thải cao nhất trên thế giới. Do vậy, để thực hiện các mục tiêu đề ra, Trung Quốc đã tập trung vào 6 nhóm chính sách chủ yếu: Chính sách về năng lượng; công nghiệp; thị trường tiêu dùng với sự tham gia trực tiếp của khu vực công trong thực hiện các hành động xanh và luật về mua sắm công xanh; chính sách về đầu tư (như đầu tư công về hạ tầng năng lượng); các chính sách về đổi mới công nghệ xanh trong công nghiệp và năng lượng, cuối cùng là các chính sách quản lý.

Trước hết, Trung Quốc đã xúc tiến phát triển công nghiệp theo phương châm phát triển nền kinh tế các-bon thấp. Theo mô hình này, Trung Quốc đẩy mạnh phát triển hệ thống giao thông công cộng, đầu tư và phát triển các loại xe, phương tiện các-bon thấp như xe điện, giảm tỷ lệ sử dụng than, phát triển nhà máy điện không sử dụng nhiên liệu hóa thạch, thúc đẩy thương mại hóa điện năng lượng mặt trời.

Tại Trung Quốc việc tuân thủ tiêu thụ các-bon thấp được mô tả thông qua nguyên tắc 6R “Reduce-Reevaluate-Reuse-Recycle-Rescue-Recalculate”. Để tuân thủ các nguyên tắc này, Trung Quốc đã ban hành các đạo luật như Luật Tiêu thụ bền vững, Luật Mua sắm xanh..., đồng thời thiết lập một hệ thống thông tin công khai liên quan đến pháp luật, tiêu chuẩn môi trường, thủ tục tố tụng hành chính, các sản phẩm xanh; hỗ trợ tài chính cho các đối tượng sử dụng các sản phẩm xanh, trợ cấp về giá nếu tiêu thụ các sản phẩm tiết kiệm điện, xe ô tô năng lượng.

Đáng chú ý, Trung Quốc đã xây dựng hệ thống thuế xanh, tăng chi tiêu ngân sách cho sự phát triển nền kinh tế các-bon thấp như: tăng phí ô nhiễm, tăng phạm vi thu, từng bước thay thế phí ô nhiễm bằng các loại thuế ô nhiễm, bảo đảm nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền . Trung Quốc đang hình thành lộ trình liên quan đến thuế các-bon sẽ được bắt đầu sớm để thiết lập một mức giá ổn định cho sự đổi mới các-bon thấp và thương mại hóa trên quy mô lớn. Trong trung và dài hạn, một phần doanh thu từ thuế nhiên liệu, năng lượng và các-bon bổ sung có thể được phân bổ cho quỹ phát triển bền vững .

Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tạo nguồn vốn cho đầu tư xanh thông qua biện pháp ưu tiên phát triển hệ thống tài chính xanh, đặc biệt chú ý đến các chính sách tín dụng xanh, đồng thời cùng với phát triển trái phiếu xanh.

Đề xuất Việt Nam sớm xây dựng Luật Tăng trưởng xanh, Mua sắm xanh

Tháng 10/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” thể hiện mục tiêu mạnh mẽ của nước ta về tái cơ cấu mô hình tăng trưởng hướng tới kinh tế xanh.

Tại Hội nghị Khí hậu COP 26, Việt Nam gây ấn tượng với cam kết đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng 0, nâng tỉ lệ năng lượng tái tạo trên 30% trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp và tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 43%.

5-1706156591.jpg

Việt Nam cần sớm xây dựng hệ thống hành lang pháp lý về Tăng trưởng xanh, Mua sắm xanh

Tuy nhiên Việt Nam cần sớm xây dựng hoàn thiện khung chính sách pháp luật về kinh tế xanh. Việt Nam có thể tham khảo Luật Tăng trưởng xanh của Hàn Quốc, đây được nhận định là đạo luật quy định bao quát tất cả các vấn đề có liên quan đến năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế bền vững thông qua việc thực hiện công nghiệp xanh và phát triển công nghệ xanh như là động lực của tăng trưởng; …

Cần thiết lập chính sách hỗ trợ cho các ngành kinh tế xanh, chẳng hạn như giảm thuế, ưu đãi vốn, thúc đẩy nghiên cứu và nâng cao trình độ công nghệ, tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi kinh nghiệm giữa doanh nghiệp trong nước và quốc tế…Theo đó có thể tham khảo chính sách hệ thống thuế xanh của Trung Quốc, tăng chi tiêu ngân sách cho sự phát triển nền kinh tế các - bon thấp.

Cũng nên tham khảo Kế hoạch Xanh của Singapore , trong đó có chính sách thuế suất được ấn định thấp và áp dụng trong phạm vi hẹp để thị trường có thời gian thích nghi. Thuế được đánh trực tiếp vào các cơ sở trực tiếp thải ra ít nhất 25.000 tấn khí thải nhà kính hàng năm. Nên có những chính sách hỗ trợ tập trung vào phát triển các năng lực bền vững trong doanh nghiệp, tăng cường các năng lực cụ thể của ngành và thúc đẩy một hệ sinh thái bền vững sôi động và thuận lợi.

Cần sớm xây dựng và ban hành các cơ chế khuyến khích và thúc đẩy nghiên cứu, sử dụng công nghệ mới, ít tiêu hao nhiên liệu, giảm phát thải khí nhà kính và thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, ban hành chính sách về bảo đảm giá và cơ chế ưu đãi cho phát triển năng lượng tái tạo.

Cần hình thành thị trường mua sắm công xanh và chuỗi giá trị xanh. Nhà nước là người tiêu dùng quan trọng (mua sắm công thường chiếm tới 20% chi tiêu của Chính phủ) trong việc thực hiện tăng trưởng xanh, do đó cần phải có khung pháp lý qui định về hành vi mua sắm của Chính phủ theo hướng xanh hóa đối với các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Các quy định này cần phải hệ thống, đồng bộ, bắt đầu từ Luật Mua sắm xanh và các văn bản dưới luật để cụ thể hóa luật đó. Hệ thống hành lang pháp lý về mua sắm xanh cũng cần phải tích hợp các vấn đề bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu xây dựng hoàn thiện khung chính sách pháp luật về kinh tế xanh. Việt Nam có thể tham khảo Luật Tăng trưởng xanh của Hàn Quốc, đây được nhận định là đạo luật quy định bao quát tất cả các vấn đề có liên quan đến năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế bền vững thông qua việc thực hiện công nghiệp xanh và phát triển công nghệ xanh như là động lực của tăng trưởng; …

Và có thể tham khảo chính sách hệ thống thuế xanh của Trung Quốc, tăng chi tiêu ngân sách cho sự phát triển nền kinh tế các - bon thấp. Hệ thống hành lang pháp lý về mua sắm xanh cũng cần phải tích hợp các vấn đề bảo vệ môi trường, bắt đầu từ Luật Mua sắm xanh và các văn bản dưới luật để cụ thể hóa luật đó.

Quá trình chuyển dịch dần sang năng lượng xanh, năng lượng tái tạo tại các khu công nghiệp là một quá trình cần thiết và có lợi cho sự phát triển bền vững của Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình này cũng gặp phải nhiều khó khăn và vướng mắc, trong đó có thể kể đến như: Khó khăn về chính sách và quy hoạch; các chính sách và quy hoạch ngành năng lượng cần phải có tầm nhìn dài hạn, nhất quán và minh bạch để tạo ra môi trường thuận lợi cho việc đầu tư, phát triển và vận hành các dự án năng lượng xanh. Tuy nhiên, các quy định hiện nay còn chưa hoàn thiện, chưa tạo thành một khung chính sách rõ ràng, dẫn đến sự lúng túng của các cơ quan, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Do đó, cần sớm hoàn thiện hồ sơ đề xuất xây dựng Nghị định về phát triển điện mặt trời mái nhà, nghiên cứu để mở rộng đối tượng áp dụng.

Bên cạnh đó, các quy định về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện mà chưa mang tính bắt buộc. Cơ chế huy động tạo nguồn vốn cho tín dụng xanh còn hạn chế. Việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi dành cho tín dụng xanh từ các tổ chức tài chính quốc tế còn gặp nhiều khó khăn.

Để các cơ chế, chính sách của ngành ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả nhằm mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh, cần sớm ban hành "Danh mục phân loại xanh" làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Đồng thời xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh. Sớm hoàn thiện Đề án phát triển thị trường các – bon tại Việt Nam, trong đó làm rõ vai trò tham gia của các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng trong triển khai, thực hiện.

Kinh nghiệm từ quốc tế cho thấy có nhiều cách tiếp cận đối với kinh tế xanh, nhìn chung đều đòi hỏi sự phối hợp của các cấp từ cơ quan quản lý trung ương cho đến địa phương, doanh nghiệp và người dân, những cam kết đưa ra cần thiết thực và cụ thể, khung chính sách pháp luật thuận lợi và những hành động bảo vệ cần được thực hiện nhanh chóng , xuất phát từ những việc nhỏ nhất.

Có thể nói trước những yêu cầu cấp bách của mục tiêu kinh tế xanh, chuyển dịch năng lượng từ hóa thạch sang năng lượng tái tạo đang là xu hướng tất yếu, nếu Việt Nam chuyển đổi thành công thì đây không chỉ bước đệm giúp doanh nghiệp sản xuất đạt tỷ lệ xanh hóa theo lộ trình đã hoạch định, mà còn là điểm sáng để thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam.

Link nội dung: https://phapluatbanquyen.phaply.vn/phap-luat-ve-phat-trien-kinh-te-xanh-cua-mot-so-nuoc-va-nhung-goi-mo-cho-viet-nam-a1166.html