Hợp đồng chuyển giao công nghệ là Hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân chuyển giao cho nhau các đối tượng sở hữu công nghiệp như bí quyết, kiến thức kỹ thuật về công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, phần mềm máy tính, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật...
Cùng với sự phát triển của Khoa học công nghệ (KHCN), nhất là trong bối cảnh của cách mạng KHCN 4.0, việc chuyển giao công nghệ ở Việt Nam diễn ra sôi động với nhiều hình thức đa dạng như Hợp đồng chuyển giao công nghệ (HĐCGCN), Hợp đồng nhượng quyền thương mại, Hợp đồng chuyển giao quyền Sở hữu công nghiệp, Hợp đồng mua bán máy móc thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ … Kéo theo đó là sự gia tăng tranh chấp giữa các bên trong việc chuyển giao công nghệ.
Vậy các bên khi giao kết, thực hiện Hợp đồng chuyển giao công nghệ cần lưu ý gì?
Phóng viên Chuyên trang Pháp luật & Bản quyền đã có cuộc trao đổi với Chuyên gia Đỗ Hà Trung (Chuyên gia Sở hữu trí tuệ, Trung tâm quyền tác giả Việt Nam – VCOP) để làm rõ với chủ đề: “Những lưu ý khi giao kết Hợp đồng Chuyển giao công nghệ - Doanh nghiệp cần quan tâm?”. Pháp luật & Bản quyền xin trân trọng giới thiệu tới độc giả.
Chuyên gia Đỗ Hà Trung
Đặc trưng của HĐCGCN?
Phóng viên: Đặc trưng của HĐCGCN là gì và có khác biệt nào so với các hợp đồng thông thường?
Chuyên gia Đỗ Hà Trung:
HĐCGCN cũng là một dạng của Hợp đồng thương mại và cũng tuân thủ các quy định chung của Pháp luật về Hợp đồng thương mại, Hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, do bản chất của giao dịch, nên HĐCGCN cũng có những điều khoản và quy định đặc thù riêng. Chẳng hạn như:
Những tranh chấp thường xảy ra trong HĐCGCN?
Phóng viên: Theo ông, những tranh chấp nào thường xảy giữa các bên khi giao kết Hợp đồng chuyển giao công nghệ?
Chuyên gia Đỗ Hà Trung:
Theo kinh nghiệm tư vấn của tôi, những tranh chấp trong Hợp đồng chuyển giao công nghệ là rất nhiều và phức tạp. Trong đó phổ biến là:
Thứ nhất, sản phẩm không đạt yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật, thẩm mỹ theo tiêu chí mà công nghệ đó mô tả
Mặc dù, HĐCGCN có điều khoản: “Bên chuyển giao có nghĩa vụ theo dõi, giám sát, tập huấn bên nhận chuyển giao, đảm bảo sản phẩm sản xuất ra từ công nghệ đó vận hành ổn định”. Tuy nhiên, sau khi kết thúc thời gian tập huấn, sản phẩm tạo ra không còn đáp ứng tiêu chí mà công nghệ đó mô tả nữa. Vì vậy, tranh chấp nảy sinh giữa hai bên. Một câu hỏi được đặt ra là: “Bên chuyển giao có giấu đi bí quyết nào đó hay công nghệ đã được chuyển giao hoàn toàn hay chưa”?
Thứ hai, tranh chấp liên quan đến đối tượng chuyển giao công nghệ
Công nghệ thường gắn với các bí quyết hay sáng chế nhất định. Một vấn được đặt ra là, liệu các sáng chế hay bí mật công nghệ đó đã được đăng ký bảo hộ ở Việt Nam, hay bên chuyển giao đã xác lập được quyền đối với sáng chế hay bí mật công nghệ đó hay chưa? Dẫn tới bên nhận chuyển giao có quyền như thế nào đối với sáng chế hay bí mật công nghệ đó?
Tranh chấp sẽ phát sinh khi có bên thứ ba cho rằng mình mới là chủ sở hữu của công nghệ được chuyển giao và có thể dẫn đến HĐCGCN đã được ký kết giữa các bên bị vô hiệu.
Thứ ba, tranh chấp về việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán
Tại thời điểm thị trường có nhu cầu lớn, công nghệ chuyển giao được định giá cao. Tuy nhiên, khi thị trường thay đổi thì công nghệ đó trở nên lạc hậu, lỗi thời, dẫn đến bên nhận chuyển giao có thể không thanh toán hoặc chậm thanh toán cho bên chuyển giao.
Thứ tư, tranh chấp về việc giữ bí mật công nghệ được chuyển giao
Bên nhận chuyển giao không bảo mật công nghệ được chuyển giao, thậm chí bí mật chuyển giao trái phép công nghệ nhận được cho một bên thứ ba, mà không được bên chuyển giao ban đầu đồng ý chấp thuận. Dẫn đến, bên thứ ba khai thác, sử dụng cộng nghệ đó mà bên chuyển giao ban đầu không thể làm gì hay không chứng minh được để buộc chấm dứt hành vi vi phạm.
Thứ năm, tranh chấp do việc ký và giao kết hợp đồng không chặt chẽ
Các doanh nghiệp, hay các công ty, tập đoàn lớn nước ngoài, thường đều là những đối tượng lão luyện, có kiến thức và kĩ năng đàm phán dày dặn trong các thương vụ chuyển giao công nghệ. Trong khi đó, đây là lại là một điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam.
Họ thường cung cấp hợp đồng mẫu cho phía doanh nghiệp Việt Nam và chứa rất nhiều “bẫy” pháp lý. Nhiều doanh Việt, một phần do thiếu hiểu biết, một phần do chủ quan khi giao kết HĐCGCN, không kĩ lượng trong việc tìm hiểu các quy định của pháp luật trong việc soạn thảo và kể cả khi rà soát hợp đồng, dẫn tới việc kí kết với nhiều điều khoản bất lợi. Do vậy, khi triển khai trên thực tế, có thể phát sinh rất nhiều các tranh chấp và phần thua thiệt luôn về phía chúng ta.
Thứ sáu, tranh chấp phát sinh do bên chuyển giao chưa đăng ký bảo hộ đối với công nghệ được chuyển giao.
Mặc dù, việc đăng ký hay được cấp bằng bảo hộ không phải là một tiêu chí xác định công nghệ có được phép chuyển giao hay không, tuy nhiên, nếu không đăng ký quyền bảo hộ cho công nghệ của mình, pháp luật sẽ rất khó bảo vệ trong trường hợp tranh chấp phát sinh.
Cuối cùng, một tranh chấp rất hay xảy ra mà các bên cần lưu ý nữa là, sau khi chuyển giao công nghệ thì bên nhận chuyển giao có thể trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với bên chuyển giao ban đầu. Điều này làm phát sinh những xung đột lợi ích và tranh chấp giữa các bên.v.v…
Lời khuyên nào dành cho các bên khi giao kết HĐCGCN?
Phóng viên: Từ những tranh chấp hay xảy ra trên, ông có lời khuyên gì dành cho các bên khi giao kết HĐCGCN không?
Chuyên gia Đỗ Hà Trung:
Theo tôi, để tránh xảy ra tranh chấp khi giao kết HĐCGCN thì các bên cần:
Thứ nhất, khi có sáng tạo thì nên đăng ký bảo hộ, có thể dưới dạng sáng chế hoặc giải pháp hữu ích. Trường hợp không đủ điều kiện để được bảo hộ dưới dạng sáng chế hoặc giải pháp hữu ích, thì có thể đưa vào dạng bí mật kinh doanh hoặc bí quyết kỹ thuật trước khi giao kết HĐCGCN.
Bên nhận chuyển giao cũng cần lưu ý chủ thể của công nghệ được chuyển giao. Nếu bên đó không phải chủ sở hữu hợp pháp thì sẽ không có quyền chuyển nhượng, chuyển giao.
Thứ hai, cần xác định rõ phạm vi chuyển giao trong hợp đồng. Chuyển nhượng hay chuyển giao quyền sử dụng? Chuyển nhượng là giao đứt quyền sở hữu để người ta sử dụng, khai thác và phát triển thêm. Còn chuyển giao quyền sử dụng thì có nghĩa là bên nhận chuyển giao chỉ được sử dụng trong một thời gian, không gian, địa điểm nhất định.Việc xác định rõ thời gian, không gian công nghệ được chuyển giao cũng giúp tránh việc bên nhận chuyển giao lại trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với bên chuyển giao ban đầu.
Thứ ba, cần lựa chọn phương thức thanh toán phí chuyển giao phù hợp. Phí trọn gói một lần hay tính theo phương pháp khác (theo doanh thu, theo phần trăm lợi nhuận,…). Cần tìm hiểu kỹ ưu nhược điểm của từng phương thức thanh toán để lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích, nhu cầu và khả năng của các bên khi tham gia giao kết HĐCGCN.
Thứ tư, bảo mật thông tin công nghệ được chuyển giao cũng rất quan trọng. Như đã trình bày, nhiều trường hợp, sau một thời gian sử dụng, bên nhận chuyển giao thấy phí không hợp lý và thanh lý hợp đồng, nhưng họ lại bí mật chuyển giao công nghệ đó cho một bên thứ ba. Vì vậy, các bên cần thỏa thuận rõ, nếu bên được chuyển giao công nghệ tự ý thanh lý hợp đồng mà không do lỗi của bên chuyển giao, thì phải bồi thường thiệt hại gấp nhiều lần giá trị HĐCGCN.
Thứ năm, cần xem xét các công nghệ được chuyển giao có nằm trong mục các công nghệ bị hạn chế hoặc cấm chuyển giao hay không. Nếu đối tượng chuyển giao công nghệ thuộc danh mục bị hạn chế chuyển giao thì phải thực hiện thủ tục đề nghị cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ.
Thứ sáu, khi giao kết HĐCGCN, đặc biệt với doanh nghiệp nước ngoài, cần xác định rõ ngôn ngữ nào (tiếng Việt hay tiếng Anh) sẽ được ưu tiên áp dụng và lựa chọn pháp luật của bên nào khi xảy ra tranh chấp. Tất nhiên là nếu hai bên thỏa thuận sử dụng pháp luật Việt Nam thì sẽ tốt hơn cho doanh nghiệp Việt. Tuy nhiên, có nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi chuyển giao công nghệ lại muốn chọn pháp luật của nước họ. Trong các tình huống đó, thì các doanh nghiệp Việt nên cẩn thận và tìm hiểu về pháp luật của nước sở tại xem có điểm gì có thể gây bất lợi cho mình hay không, tránh lương theo Hợp đồng mẫu mà họ đã soạn thảo sẵn từ trước!
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần cẩn trọng trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Nếu lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp tại nước ngoài sẽ dẫn tới một khoản chi phí khổng lồ cho các doanh nghiệp Việt để theo kiện và đôi khi chi phí đó vượt quá giá trị của HĐCGCN.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn chuyên gia về cuộc trao đổi.
Hiện nay, Nhà nước khuyến khích việc chuyển giao công nghệ, nhất là từ nước ngoài về Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chỉ quan tâm tới việc thương mại hóa công nghệ mà ít quan tâm tới vấn đề pháp lý, chưa chủ động trong việc đàm phán và ký kết hợp đồng dẫn tới những rủi ro và thiệt hại không đáng có.
Để đảm bảo và tối ưu hóa lợi ích khi giao kết HĐCGCN, tránh những tranh chấp không đáng có, các bên cần có sự thiện chí và thận trọng nhất định trong việc đàm phán, rà soát, ký kết và thực hiện hợp đồng, nhất là doanh nghiệp Việt Nam khi nhận chuyển giao công nghệ từ các công ty, tập đoàn lớn nước ngoài.
Kỳ Anh
Link nội dung: https://phapluatbanquyen.phaply.vn/nhung-luu-y-khi-giao-ket-hop-dong-chuyen-giao-cong-nghe-doanh-nghiep-can-quan-tam-a399.html