So sánh quyền tác giả với quyền sở hữu công nghiệp.

(PLBQ). Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó.

Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng đối với không chỉ chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng mà còn liên quan đến sự phát triển của quốc gia. Trong đó, quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp là những quyền sở hữu trí tuệ cơ bản được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019). Nghiên cứu, tìm hiểu về sự giống và khác nhau giữa quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp sẽ giúp ích cho chúng ta trong công tác quản lý và thực thi được hiệu quả.

Có 4 điểm giống nhau cơ bản

Thứ nhất, cả quyền tài sản và quyền sở hữu công nghiệp đều cùng bảo vệ thành quả sáng tạo đó là tài sản trí tuệ, bảo vệ kết quả của quá trình sáng tạo tư duy trong bộ não của con người.

Thứ hai, đều là một trong những quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019) và cùng mang những đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ:

Đối tượng được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Đó là những lợi ích mà khi tham gia vào quan hệ pháp luật sở hữu các chủ thể luôn hướng tới; tác giả của tác phẩm, tác giả của sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp; chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan, chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp và một số chủ thể khác theo quy định của pháp luật.

Nội dung của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản. trong đó, quyền nhân thân vẫn được tôn trọng khi hết thời hạn bảo hộ, đối với quyền tài sản thì việc chiếm hữu tài sản không có giá trị pháp lý.

Quyền sở hữu trí thuệ không phải là quyền tuyệt đối, là quyền chỉ mang tính tương đối. Quyền sở hữu trí tuệ có giới hạn nhất định về mặt không gian. Chỉ được bảo hộ trong phạm vi một quốc gia, trừ trường hợp khi có tham gia Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ thì lúc đó phạm vi bảo hộ được mở rộng ra các quốc gia thành viên. Pháp luật có đặt ra thời hạn bảo hộ. Trong thời hạn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bất khả xâm phạm. Hết thời hạn bảo hộ này (bao gồm cả thời hạn gia hạn nếu có), tài sản đó trở thành tài sản chung của nhân loại, có thể được phổ biến một cách tự do mà không cần bất kỳ sự cho phép nào của chủ sở hữu.

Thứ ba, cả quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp chỉ được pháp luật bảo hộ khi có nội dung không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.

Thứ tư, quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đều là những quyền của các chủ thể sáng tạo hoặc chủ thể sở hữu các sáng tạo đó, nó mang lại cho họ cả những giá trị về mặt vật chất (quyền tài sản) và phi vật chất (quyền nhân thân). Đều bảo hộ cho quyền và lợi ích của các chủ thể có quyền và tránh các hành vi xâm phạm đến chủ thể có quyền được bảo hộ.

 Những điểm khác nhau cơ bản giữa hai Quyền

Về khái niệm:

Khái niệm về quyền tác giả được quy định tại khoản 2, điều 4, luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ( sửa đổi, bổ sung 2009,2019), theo đó: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”

Khái niệm về quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại khoản 4, điều 4, luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019), theo đó: “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.”

Về đối tượng

Đối tượng quyền tác giả là các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ phương tiện hay hình thức nào bao gồm: tác phẩm văn học, sách giáo khoa, bài giảng, bài phát biểu, tác phẩm báo chí (khoản 1, điều 14, luật Sở hữu trí tuệ 2005; sửa đổi, bổ sung 2009, 2019) ; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá (khoản 1, điều 17, luật Sở hữu trí tuệ 2005; sửa đổi, bổ sung 2009, 2019)

Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là các sáng tạo liên quan đến công nghệ và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh, bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. (Khoản 2 Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ 2005; sửa đổi, bổ sung 2009, 2019).

Về căn cứ xác lập:

Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d­ưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay ch­ưa công bố, đã đăng ký hay ch­ưa đăng ký. Không bắt buộc mà chỉ khuyến khích đăng ký. Thủ tục đơn giản, không thẩm định nội dung chỉ ghi nhận quyền tác giả

Quyền sở hữu công nghiệp phát sinh tại từng thời điểm khác nhau tùy thuộc vào đối tượng được bảo hộ. Theo khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 quy định rõ về căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp như sau:

a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;

b) Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;

c) Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;

d) Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.

Về hình thức bảo hộ:

Quyền tác giả không bảo hộ về mặt nội dung, chỉ cần đáp ứng một hình thức nhất định. Quyền tác giả chỉ được bảo hộ khi đáp ứng tiêu chí tính sáng tạo nguyên gốc. Tác phẩm được bảo hộ phải là bản gốc (bản đầu tiên của tác phẩm do tác giả sáng tạo ra). Điều đó không có nghĩa là chủ đề, nội dung hay ý tưởng của tác phẩm phải mới mà đặt ra cho người sáng tác hình thức thể hiện mới của ý tưởng đó và do tác giả sáng tạo ra.

Quyền sở hữu công nghiệp bảo độ đôc quyền về mặt nội dung, ý tưởng và uy tín thương mại. Một số đối tượng phải được đánh giá và công nhận, một số đối tượng được xác định bảo hộ thông qua các vụ tranh chấp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp quyền tác giả bị giới hạn bởi quyền và lợi ích chính đáng của người khác, lợi ích của cộng đồng và các nghĩa vụ khác.

Về điều kiện bảo hộ:

Quyền tác giả có chức năng bảo hộ tự động, phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d­ưới một hình thức vật chất nhất định chính vì vậy, quyền tác giả không bắt buộc đăng ký nên không cần có văn bằng bảo hộ.

Đối với quyền sở hữu công nghiệp, trong một số trường hợp phải đăng ký để được hưởng quyền bảo hộ ở một số đối tượng và có văn bằng bảo hộ như: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu (trừ nhãn hiệu nổi tiếng), tên thương mại.

Ví dụ: Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

+   Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;

+   Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.

Về thời hạn bảo hộ:

Thứ nhất, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định tại điều 27, luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019), theo đó:

Quyền nhân thân bao gồm: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên các tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm thì được bảo hộ vô thời hạn

Quyền nhân thân về công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm và toàn bộ các quyền tài sản có thời hạn bảo hộ như sau:

Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;

Tác phẩm thuộc loại còn lại có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.

Thứ hai, thời hạn bảo hộ của quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại điều 93, luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019). Theo đó:

Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn.

Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn.

Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm.

Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn có hiệu lực từ ngày cấp và chấm dứt vào ngày sớm nhất trong số những ngày sau đây: Kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn; kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng ký hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới; kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.

Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp.

MINH NGUYỆT

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin.