Tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực kinh doanh du lịch: Các phương thức giải quyết và những vấn đề pháp lý doanh nghiệp cần nắm rõ.

(PLBQ). Mặc dù Luật Du lịch 2017 đã tạo điều kiện để dịch vụ lữ hành được đơn giản hóa và góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch… Nhưng, đồng thời làm tăng nhanh sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường và phát sinh các tranh chấp về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là về nhãn hiệu.

(Kỳ 1)

Các tranh chấp về sở hữu trí tuệ trong du lịch, đặc biệt là về nhãn hiệu đã xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên phổ biến, phức tạp trong thời gian qua. Nguồn pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này mặc dù đã có nhưng còn chưa đầy đủ, trong khi đó các biện pháp giải quyết tranh chấp còn bộc lộ nhiều bất cập.

Nguồn pháp luật điều chỉnh về tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch

Nguồn của pháp luật về tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và tranh chấp về nhãn hiệu nói riêng so với các lĩnh vực khác có những đặc thù nhất định. Quan điểm chung của một số Luật gia cho rằng SHTT là một lĩnh vực thuộc luật dân sự. Tuy nhiên, SHTT nói chung và nhãn hiệu nói riêng được quy định khá rải rác tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nên đôi khi tồn tại những quan điểm khá khác nhau.

Trên thực tế, so với BLDS 2005, BLDS 2015 không có nhiều hơn các quy định về SHTT, trừ một số quy định liên quan đến tài sản nói chung, hầu hết các quy định liên quan đến nhãn hiệu đều nằm trong Luật SHTT. Các quy tắc căn bản của quyền SHTT nói chung và quyền Sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với nhãn hiệu nói riêng đều đuộc điều chỉnh trong Luật SHTT.

Luật Cạnh tranh năm 2014 cũng chưa có nhiều quy định liên quan đến nhãn hiệu trong lĩnh vực cạnh tranh. Các chế tài liên quan tới vi phạm quyền nhãn hiệu hay thẩm quyền xử lý, giải quyết tranh chấp về nhãn hiệu được quy định tập trung tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật xử phạt vi phạm hành chính 2012 và Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017).

Bên cạnh các văn bản Luật nói trên, cũng cần lưu ý các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các luật nêu trên, bao gồm:

  • Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về SHCN.
  • Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
  • Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN.
  • Thông tư số 16/2016/TT-BKHCN ngày 30/06/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về SHCN được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 30/07/2010.
  • Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN ngày 22/7/2011 và Thông tư số 05/2013/TT-BKHCN ngày 20/02/2013.
  • Thông tư liên tịch số 14/2016/TTLT-BTTTT-BKHCN ngày 08/6/2016 về hướng dẫn trình tự, thủ tục thay đổi, thu hồi tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Các văn bản quy phạm pháp luật tuy đã hướng dẫn khá cụ thể, tuy nhiên vẫn không thể bao quát được tất cả các trường hợp xảy ra trong thực tế liên quan đến lĩnh vực du lịch và lữ hành, do hoạt động kinh doanh lữ hành diễn ra ngày càng nhiều về số lượng và phức tạp hơn về tính chất, đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Do đó, khi có tranh chấp xảy ra trên thực tế, các quy phạm pháp luật khác cũng có thể được áp dụng. Cụ thể, Điều 5 và Điều 6 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:

  • Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán.
  • Nếu không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.

Như vậy thứ tự ưu tiên đối với các loại nguồn của luật tư gồm hợp đồng, văn bản quy phạm pháp luật, tập quán, áp dụng tương tự về điều luật, áp dụng tương tự về pháp luật, án lệ, lẽ công bằng. Do đó, khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, nguồn pháp luật áp dụng đầu tiên là hợp đồng, với điều kiện hợp đồng này phải tuân thủ các quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch phát sinh khi có hành vi xâm phạm quyền SHCN hoặc cạnh tranh không lành mạnh nên đa số các tranh chấp là tranh chấp ngoài hợp đồng. Pháp luật hợp đồng thường sẽ được áp dụng trong trường hợp tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu và hợp đồng dịch vụ đại diện SHCN.

Ngoài ra, do Việt Nam đã trở thành thành viên của khá nhiều cam kết quốc tế, điều ước quốc tế cũng có thể trở thành nguồn pháp luật của tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch. BLDS 2015 quy định khi có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì sẽ áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

Bên cạnh đó, khi đề cập đến tranh chấp trong một lĩnh vực kinh tế cụ thể thì không thể không nhắc tới các quy định pháp luật quản lý ngành đó, mà cụ thể là Luật Du lịch 2017 và các văn bản dưới luật gồm Nghị định 168/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch; Nghị định 45/2019/NĐ-CP ngày 21/5/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch. Các văn bản pháp luật này không có quy định cụ thể nào về tranh chấp nhãn hiệu giữa hai doanh nghiệp lữ hành mà chủ yếu các quy định liên quan sẽ là về bảo vệ khách du lịch.

Khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Du lịch, các nhà làm luật rất quan tâm đến việc tuân thủ cam kết đối với khách du lịch khi thực hiện hợp đồng lữ hành, cũng như đảm bảo tính mạng, sức khỏe, tài sản cho khách du lịch tại các điểm đến. Khách du lịch sẽ được lấy làm trung tâm của mọi hoạt động du lịch. Nhiều nội dung liên quan của luật như quy định về quản lý khu, điểm du lịch, kinh doanh dịch vụ lữ hành, hướng dẫn viên du lịch, kinh doanh các dịch vụ du lịch khác đều đã được điều chỉnh, bổ sung để bảo đảm an ninh, an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, tạo điều kiện thuận lợi để khách du lịch tham quan, du lịch.

Do đó, khi khách du lịch cảm thấy bị lừa dối, bị doanh nghiệp lữ hành cung cấp thông tin sai sự thật, không đúng với cam kết trong hợp đồng đã ký kết, có thể khiếu nại để được đảm bảo quyền lợi của mình.

Đối với doanh nghiệp, Luật tương đối tạo điều kiện để đăng ký kinh doanh hoạt động lữ hành.

Luật Du lịch 2005 quy định để kinh doanh lữ hành, các doanh nghiệp ngoài giấy đăng ký kinh doanh còn phải cung cấp phương án kinh doanh lữ hành nội địa, chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa, người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa phải có thời gian ít nhất ba năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành (đối với lữ hành nội địa); phương án kinh doanh lữ hành, chương trình du lịch cho khách quốc tế, giấy tờ chứng minh thời gian hoạt động của người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành, bản sao thẻ hướng dẫn viên và hợp đồng của hướng dẫn viên với doanh nghiệp lữ hành, giấy chứng nhận tiền ký quỹ (đối với lữ hành quốc tế).

Luật Du lịch 2017 ra đời đã đơn giản hóa đáng kể các yêu cầu để kinh doanh lữ hành. Cụ thể, ngoài giấy đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp chỉ cần khi đáp ứng các quy định về người phụ trách kinh doanh lữ hành và ký quỹ là có thể tiến hành hoạt động kinh doanh lữ hành. Tuy nhiên, với một ngành kinh doanh có điều kiện, đây lại là một bất lợi cho các nhà quản lý. Trong thủ tục đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp không được:

  • Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
  • Sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.

Trên thực tế, chỉ cần thêm bớt vài từ là có thể đăng ký kinh doanh được cho tên doanh nghiệp đó. Còn khi cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế, các quy định của pháp luật về du lịch cũng không có quy chế thắt chặt về tên doanh nghiệp mà sẽ sử dụng thông tin trong đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.

 

Đối với một ngành kinh doanh dịch vụ dựa khá nhiều vào uy tín, thủ tục để có được giấy phép con khá đơn giản như vậy sẽ khiến số lượng các doanh nghiệp với tên tương tự nhau tăng lên. Bên cạnh đó, tranh chấp về nhãn hiệu giữa doanh nghiệp có giấy phép và không có giấy phép cũng khá nhiều, mà các nhà làm luật khi xây dựng các chế tài trong ngành du lịch chưa có sự quan tâm đúng mức. Như vậy, khi nói tới tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch, không thể chỉ xác định trong một môi trường pháp lý cụ thể mà sẽ phải xét các loại nguồn pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, các nguồn chủ yếu sẽ vẫn là các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

 

Các biện pháp giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong kinh doanh du lịch

Giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước

Tranh chấp nhãn hiệu trong kinh doanh du lịch, Doanh nghiệp (DN) có quyền tự do lựa chọn các cơ quan liên quan giải quyết tranh chấp khi bị xâm phạm quyền. Khi một DN lữ hành cho rằng quyền hoặc lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm và bị gây thiệt hại đều có quyền kiện lên tòa án để thực thi công lý, đòi bồi thường thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm,…cũng như các cơ quan hành chính bao gồm Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp để bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu của mình.

Các đối tượng tranh chấp là tên nhãn hiệu của DN, có đặc điểm dễ bị nhái theo, lan truyền nhanh nên dễ dàng bị xâm phạm. Hành vi xâm phạm nhãn hiệu không chỉ gây ảnh hưởng lớn trong xã hội mà còn gây thiệt hại không nhỏ cho chủ thể quyền. Vì vậy, việc cho phép DN tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong số các cơ quan nhà nước khi quyền đối với nhãn hiệu của họ bị vi phạm là rất cần thiết để có thể buộc bên vi phạm phải gánh chịu chế tài của luật công nhằm trừng phạt hành vi gây ảnh hưởng tới xã hội, đồng thời phải gánh chịu chế tài của luật tư để bù đắp xứng đáng các thiệt hại, trước hết là cho người có quyền đối với nhãn hiệu.

Giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước

Trong số các phương thức giải quyết tranh chấp bằng ADR (phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế), thương lượng là phương thức các bên sử dụng nhiều nhất khi có tranh chấp xảy ra, hòa giải cũng được áp dụng trên thực tế nhưng không nhiều. Tuy nhiên, các phương thức này chủ yếu áp dụng cho các tranh chấp trong giai đoạn sử dụng nhãn hiệu mà hầu như không được sử dụng cho các tranh chấp trong giai đoạn xác lập quyền, vốn được các bên tranh chấp mặc nhiên đó là vai trò của Cục SHTT.

Có thể nói, trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại gặp phải hai khuynh hướng trái ngược nhau. Đối với các tranh chấp về tên miền, phương thức trọng tài có lẽ được ưa chuộng hơn. Trong khi đó, đối với các tranh chấp về nhãn hiệu, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hiện ít được sử dụng.

 

Tại Việt Nam, khi hai DN du lịch có tranh chấp về tên miền “.vn” liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, các DN thường nộp đơn đến Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC). Theo Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet hiện nay, VINNIC chỉ có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính về quy trình tiếp nhận hồ sơ đăng ký tên miền theo quy tắc đăng ký trước được xét cấp trước cũng như các khiếu nại trong quá trình thu nộp phí duy trì tên miền.

 

Đối với các khiếu nại có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tên miền “.vn” giữa các bên, VNNIC chỉ có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để các bên tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Luật Công nghệ thông tin quy định các hình thức giải quyết tranh chấp cụ thể bao gồm:

  • Thông qua thương lượng, hòa giải.
  • Thông qua trọng tài.
  • Khởi kiện tại tòa án.

Việc giải quyết tranh chấp tên miền liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa thông qua trọng tài sẽ giúp các bên chủ động, linh hoạt hơn, bảo mật được thông tin và tiết kiệm thời gian so với giải quyết bằng tòa án. Tuy nhiên, hình thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài cần phải có sự chấp thuận của cả hai bên. Nếu xét tên miền trong mối tương quan với nhãn hiệu thì có thể thấy các đạo luật chưa hoàn toàn thống nhất với nhau trong việc quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước.

Luật SHTT không quy định các phương thức giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng. Trong khi đó, Luật Công nghệ thông tin theo mô hình của một số đạo luật trong lĩnh vực luật tư ở Việt Nam ghi nhận cụ thể tên của các phương thức giải quyết tranh chấp, tuy rằng không đầy đủ như các đạo luật khác ở Việt Nam.

Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp chính thức và kết quả được thực thi chắc chắn nhất nhưng lại gây ảnh hưởng tới mối quan hệ của các bên tranh chấp. Bởi vậy, xuất hiện nhiều trường hợp lựa chọn con đường hòa giải khi đang trong quá trình tố tụng tại tòa án. Khi đó, các bên có tâm lý tốt hơn vì đã thống nhất ý chí đối với kết quả giải quyết tranh chấp.

Đánh giá các phương thức giải quyết tranh chấp

Phương thức giải quyết tranh bằng các cơ quan nhà nước

Trước hết, xét một cách tổng thể, giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch bằng các cơ quan nhà nước mang lại một số lợi ích chung cho các đối tượng tranh chấp.

Thứ nhất, nhà nước là một thực thể có quyền lực bao quát xã hội và được thực hiện cưỡng chế một cách hợp pháp trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật. Do đó, kết quả của việc giải quyết tranh chấp bằng cơ quan nhà nước được bảo đảm thi hành nhanh chóng.

Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng con đường nhà nước có thủ tục tương đối chặt chẽ, rõ ràng và nếu được thực hiện một cách nghiêm túc có thể đưa ra những phần quyết chính xác, công bằng.

Thứ ba, hoạt động lưu giữ hồ sơ vụ việc chắc chắn và lâu dài giúp theo dõi mối quan hệ giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm, bảo vệ quyền của bên bị vi phạm, đảm bảo bên vi phạm thực hiện đúng nghĩa vụ tôn trọng quyền của bên bị vi phạm, ngăn ngừa, triệt tiêu khả năng tái phạm.

Thứ tư, nhà nước có đầy đủ các cách thức, phương tiện và công cụ hỗ trợ cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm này, giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước cũng tồn tại những hạn chế như:

  • Việc giải quyết tranh chấp thường kéo dài, gây tốn kém về thời gian và công sức của các bên, gây tâm lý nặng nề đối với các bên.
  • Khó đảm bảo bí mật thông tin khi sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước so với phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước vì nhiều người có thể tham gia vào thủ tục giải quyết cũng như thiếu linh động hơn.

Phương thức giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước

Hầu hết các nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước được khắc phục trong phương thức giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước. Tuy vậy, giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước thiếu đi tính cưỡng chế thi hành nên vẫn phải dựa vào quyền lực công để bảo đảm tính hiệu quả. Dù pháp luật ghi nhận quyền tự do thỏa thuận và tự định đoạt của đương sự nhưng để nhận được sự hỗ trợ của nhà nước trong việc thi hành kết quả giải quyết tranh chấp, hầu hết các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước đều phải được pháp luật thừa nhận dưới các hình thức khác nhau.

Phương thức thương lượng

Với phương thức thương lượng, đây là phương thức giải quyết tranh chấp được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết bằng cách các bên hoặc đại diện của các bên tranh chấp tự động liên hệ để trao đổi, bàn bạc và thỏa thuận với nhau trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm tháo gỡ mâu thuẫn, xung đột khi có tranh chấp xảy ra. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thực chất là việc giải quyết nội bộ, hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có sự can thiệp của bất kỳ cơ quan nhà nước hay người thứ ba nào.

Do đó, phương thức giải quyết tranh chấp này có các ưu điểm là thủ tục giải quyết đơn giản và không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý, giúp hai bên tiết kiệm chi phí, thời gian, tiền bạc và giữ được bí mật, uy tín trong hoạt động kinh doanh. Nhược điểm của phương pháp thương lượng là kết quả giải quyết tranh chấp phải phụ thuộc vào thiện chí hợp tác của các bên và không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc.

Phương thức hòa giải

Đặc điểm của hoà giải là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc giải quyết tranh chấp với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập gọi là hoà giải viên, đây chính là điểm khác biệt so với phương thức thương lượng. Hòa giải viên giữ vai trò là trung gian, độc lập để phân tích, tư vấn cho các bên về bản chất của tranh chấp, quy định của pháp luật, hỗ trợ và thậm chí đề xuất cách giải quyết tranh chấp để giúp các bên tìm ra một giải pháp phù hợp nhất mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận nhưng không có quyền xét xử và ra phán quyết mà kết quả phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.

Do đó, hòa giải sẽ có ưu điểm là thủ tục đơn giản, linh hoạt, các bên hoàn toàn làm chủ quy trình hòa giải cũng như quyết định nội dung thỏa thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp, tối thiểu hóa chi phí, tính bảo mật cao. Trong khi đó, nhược điểm của phương thức này là kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của hòa giải viên cũng như quyết định hòa giải chỉ có giá trị như một hợp đồng giữa các bên và không được đảm bảo thi hành bởi các cơ quan có thẩm quyền.

Phương thức trọng tài

Phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ngoài nhà nước cuối cùng mà các DN có thể áp dụng là trọng tài.

Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập do các bên lựa chọn, nhằm chấm dứt xung đột giữa các bên tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên phải thực hiện. Ưu điểm của phương thức trọng tài là thủ tục đơn giản nhưng vẫn bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt của các bên đương sự, linh hoạt, chủ động, tính bảo mật cao và tiết kiệm thời gian. Các nhược điểm của phương thức trọng tài gồm chi phí tương đối cao, phán quyết của trọng tài là chung thẩm nhưng không mang tính cưỡng chế nhà nước và việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi do phần lớn vào ý thức tự nguyện của các bên.

Việc xác định tranh chấp và phương thức giải quyết tranh chấp là điều kiện cần thiết cho các chủ thể trong các vụ tranh chấp. Tuy nhiên để giải quyết tranh chấp được hiệu quả các bên, đặc biệt là bên bị vi phạm đồng thời cần nắm rõ các quy định về thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp về nhãn hiệu trong kinh doanh du lịch. Nội dung này sẽ được Pháp luật và Bản quyền gửi đến bạn đọc ở kỳ 2 của bài viết nghiên cứu, hướng dẫn. Xin mời quý bạn đọc cùng đón đọc.

(Còn nữa)

Kỳ Anh

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin.