Hiệp định EVFTA và yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý thử nghiệm điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng

Sự phát triển mang tính bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 kéo theo nhu cầu mạnh mẽ về vay vốn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng đã dẫn đến sự ra đời tất yếu của “dịch vụ tài chính mới” tại Việt Nam, ...

… bao gồm các loại hình công nghệ tài chính (sau đây gọi là Fintech) nói chung và hoạt động cho vay ngang hàng (sau đây gọi là P2P Lending) nói riêng.

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đang thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng thông qua việc gia nhập nhiều hiệp ước hợp tác và phát triển về kinh tế, trong đó có Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Châu Âu, mang đến những thay đổi có tính chất lịch sử cho ngành tài chính Việt Nam qua cam kết mở cửa đối với thị trường tài chính mới. Tuy nhiên, thực tiễn tại các nước phát triển trên thế giới chứng minh rằng các dịch vụ tài chính mới, đặc biệt là P2P Lending, tiềm ẩn nhiều rủi ro to lớn đến sự an toàn của thị trường tài chính, và hơn nữa pháp luật Việt Nam vẫn chưa quy định về hành lang pháp lý cho hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ P2P Lending.

Do đó, việc thiết lập khung pháp lý thử nghiệm đối với dịch vụ P2P Lending là mang tính cấp thiết, nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn và cũng như thực hiện đầy đủ cam kết của Việt Nam trong EVFTA.

Ngày 08/6/2020, Quốc hội khóa XVI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thống nhất thông qua Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu - EU (Hiệp định EVFTA), chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2020. Theo Hiệp định EVFTA[1], Việt Nam cam kết mở cửa “thị trường với các dịch vụ tài chính mới”, tuy nhiên có ràng buộc điều kiện “sẽ áp đặt một chương trình thử nghiệm thí điểm cho một dịch vụ tài chính mới, áp đặt số lượng các nhà cung cấp dịch vụ tài chính có thể tham gia thử nghiệm thí điểm hoặc hạn chế phạm vi của chương trình thí điểm” và mức độ hạn chế được cam kết sẽ “không đựợc phức tạp hơn mức cần thiết để đạt được mục tiêu”.

Việc đặt ra cơ chế thử nghiệm đối với các “dịch vụ tài chính mới” tại Việt Nam là điều tất yếu. Bởi vì, hầu hết những dịch vụ này, hiện nay, không thuộc những lĩnh vực pháp luật cấm kinh doanh, và vẫn chưa có hành lang pháp lý đầy đủ để điều chỉnh; do đó, nếu không có cơ chế kiểm soát, quản lý phù hợp, thì nguy cơ gây ra hệ lụy, và bất ổn cho sự an toàn của thị trường tài chính là rất cao. Chưa kể đến việc, thời gian gần đây, Việt Nam đang chứng kiến một lượng vốn đầu tư đột biến vào thị trường dịch vụ tài chính mới; trong đó lĩnh vực “công nghệ tài chính” hay còn gọi là “financial technology” (Fintech), chiếm số vốn đến 400 triệu USD[2] và Việt Nam là nước thứ hai tại Châu Á có lượng vốn đầu tư cao nhất trong lĩnh vực Fintech của cả khu vực; đặc biệt, là lĩnh vực “cho vay ngang hàng” , hay còn gọi là “peer to peer lending” (P2P Lending), là hình thức kết nối người vay và người cho vay thông qua nền tảng công nghệ thông tin.

P2P Lending là một trong những dịch vụ tài chính mới có mặt ở Việt Nam từ năm 2017 với sự tham gia của 3 công ty là Loanvi (Huy Dong), Tima, Trust Circle, nhưng sau đó lại có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng mặt và đến thời điểm này đã có gần 100 công ty P2P Lending. Các công ty này đã, đang và dự tính sẽ thu hút nguồn vốn giao dịch rất lớn với sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư, người đi vay như Tima chỉ hoạt động mới được 4 năm nhưng tổng số tiền cho vay, tính đến thời điểm tháng 5 năm 2020 là 93,402,452,000,000 đồng với 4,687,984 người đi vay và 44,057 người cho vay. Ở trên thế giới, từ năm 2014 đến năm 2017, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường P2P Lending đạt khoảng 120%, riêng ở Châu Âu là 87,3% và ở Anh là 109,4%, còn ở Trung Quốc, dư nợ cho vay ngang hàng đã tăng 29 lần, lên trên 1000 tỷ USD[3].

Công văn số 5228/NHNN-CSTT ngày 8/7/2019 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khẳng định: “P2P Lending có thể góp phần hỗ trợ phổ cập tài chính, mở rộng khả năng và tạo thêm kênh tiếp cận nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội (có khả năng tiếp cận internet); qua đó có thể góp phần đẩy lùi tình trạng “tín dụng đen” .Tuy nhiên, hoạt động này cũng được khuyến cáo là “tiềm ẩn nhiều rủi ro (rủi ro cho vay, rủi ro thông tin, rủi ro phòng chống rửa tiền, rủi ro an ninh mạng...) có thể tác động bất lợi, bất ổn đến an sinh xã hội”[4].

Để kiểm soát hiệu quả những nguy cơ P2P Lending có thể gây ra cho thị trường tài chính, cũng như để khai thác triệt để các lợi ích P2P Lending mang lại cho nền kinh tế, tại Nghị quyết 50/NQ-CP ngày 17/4/2020, Chính phủ đã yêu cầu “sớm ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát để triển khai thí điểm sau đó nhân rộng đối với công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới hình thành từ cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tiềm năng gây rủi ro cao”[5]. Cụ thể hơn, ở Công văn số 5225/VPCP-ĐMDN ngày 29/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất triển khai giải pháp thử nghiệm cho vay ngang hàng (P2P Lending) để hỗ trợ DNNVV tiếp cận vốn vay”[6].

Vậy P2P Lending là gì? Hoạt động này tiềm ẩn những rủi ro nào? Tại sao cần phải xây dựng khung thể chế thử nghiệm đối với P2P Lending? Và nếu xây dựng, thì khung thể chế thử nghiệm này cần quy định về những vấn đề gì để đảm bảo vừa an toàn cho thị trường tài chính Việt Nam, cũng như đảm bảo đúng cam kết là “không đựợc phức tạp hơn mức cần thiết để đạt được mục tiêu”

1. Khái niệm P2P Lending

“Cho vay ngang hàng” hay còn gọi là “Peer to Peer Lending” hay là “Online Peer to Peer Lending” là một kênh tiếp cận vốn mới; một hình thức cấp tín dụng mới của thị trường tài chính, ra đời, vận hành và phát triển theo nhu cầu tín dụng, nhằm tháo gỡ các vướng mắc, rào cản của các kênh tín dụng chính thức, thúc đẩy sự phát triển tài chính toàn diện. Do đó, P2P Lending thường được tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:

Theo Từ điển Cambridge, P2P Lending là việc sử dụng các trang web chuyên biệt để kết nối những người cho vay và những người vay cá nhân phù hợp với nhau[7].

Dưới góc độ khác, Alistair Milne và Paul Parboteeah, cho rằng P2P Lending được là việc cung cấp dịch vụ cho vay trên nền tảng công nghệ thông tin; theo đó người cho vay cung cấp, quản lý, vận hành các dịch vụ tài chính trực tuyến kết nối tới người cho vay thông qua hợp đồng cho vay điện tử[8].

Richard Gu, Alex Roberts, Eva Wang và Micheal Gu tiếp cận P2P Lending dưới góc nhìn trực diện hơn khi cho rằng P2P Lending, đơn giản là hoạt động vay trực tiếp giữa các cá nhân, doanh nghiệp thông qua nền tảng mạng Internet[9]
Như vậy, P2P Lending có thể được hiểu là hoạt động cho vay trực tiếp giữa bên cho vay (nhà đầu tư) và bên đi vay mà không cần thông qua bên trung gian tài chính như tổ chức tín dụng; và quá trình cho vay được thực hiện trực tuyến thông qua các nền tảng P2P Lending. Trong đó, nền tảng P2P Lending được hiểu là các trang web do công ty P2P Lending tạo ra, trên đó tích hợp các tính năng và thông tin giúp các bên tham gia giao dịch thực hiện giao dịch một cách dễ dàng.

2. Những rủi ro tiềm ẩn

Thực tế các nước, cho thấy hoạt động P2P Lending đang tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư, bên đi vay, sự an toàn tài chính cũng như sự phát triển ổn định của thị trường tín dụng; có thể kể đến:

(i) Rủi ro mất vốn hoặc chậm trả: Khoản vay dưới hình thức P2P Lending thường là những khoản vay không có tài sản bảo đảm; và nhà đầu tư không được bảo hiểm tiền gửi như ngân hàng truyền thống; bởi vì Công vay P2P không phải là trung gian thanh toán[10].

(ii) Xâm hại đến bí mật đời tư cá nhân: Khi đăng ký khoản vay, người đi vay thường phải đăng nhập các thông tin liên quan đến đời sống cá nhân, các mối quan hệ gia đình, bạn bè đồng nghiệp; dẫn đến đối diện với rủi ro về rò rỉ thông tin do lỗ hổng bảo mật; hoặc các hành vi mua bán thông tin trái phép; hoặc khi người đi vay không có khả năng thanh toán nợ, những người thân của họ sẽ phải đối diện những hình thức đòi nợ, làm phiền trái pháp luật[11].

(iii) Thông tin bất đối xứng: Mô hình P2P Lending, hiện nay đang hoạt động theo 2 mô hình cơ bản: (i) Mô hình cho vay ngang hàng chủ động: Hình thức này cho phép các nhà đầu tư trực tiếp lựa chọn khoản cho vay để tài trợ từ một nhóm đối tương đi vay được liệt kê; (ii) Mô hình cho vay ngang hàng chủ động: Nhà đầu tư không chọn được nhu cầu vay cụ thể mà chỉ trực tiếp chọn loại rủi ro, thời hạn và kỳ hạn cho vay mà họ sẵn sàng tài trợ, từ đó các nền tảng vay ngang hàng sẽ khớp các yêu cầu đó với đề nghị vay vốn của nhà đầu tư[12].

Như vậy, dù là hình thức nào, người đi vay và người cho vay, thông qua nền tảng P2P Lending sẽ không nắm được thông tin trực tiếp về nhau; để có thể đưa ra phương án đánh giá, xử lý rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản phù hợp và hiệu quả nhất. Toàn bộ thông tin liên quan đến các khoản vay đều được thu thập và cung cấp bởi công ty P2P Lending; thông qua hệ thống xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên, mặc dù hệ thống luôn được cập nhật và có thể kết nối với hệ thống trung tâm thông tin tín dụng quốc gia, nhưng vẫn có thể không dự đoán chính xác được cách thức các khoản vay sẽ hoạt động vì nền tảng P2P Lending có số lượng dữ liệu lịch sử cho vay hạn chế.

(iv) Các công ty P2P Lending thực hiện những hoạt động ngoài phạm vi trung gian kết nối thông tin: Trực tiếp huy động và cấp tín dụng cho người đi vay, như một ngân hàng (shadow banking); hay hoạt động theo mô hình xác sống (ponzi) với nhiều dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tiền của người cho vay và cả người đi vay; thực hiện cả chức năng trung gian thanh toán.

(v) Rủi ro vận hành: Vì hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ; nên tiềm ẩn các rủi ro trong quá trình vận hành nền tảng, như phần mềm bị lỗi, hoặc ngưng hoạt động, hoặc đơn giản là bên cung cấp dịch vụ rút khỏi thị trường;

(vi) Rủi ro về đạo đức: Bên vận hành nên tảng P2P lending hoạt động như tổ chức huy động vốn rồi đem cho vay, thông đồng lập hồ sơ giả; thổi phồng thông tin; sử dụng tiền nhà đầu tư cho các mục đích khác, không đúng với mục đích ban đầu; khớp nối kỳ hạn của khoản vay không đúng nguyên tắc; ngầm bắt tay với các kênh tín dụng chính thức cho vay ngang hàng để ăn chênh lệch[13].

3. Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý thử nghiệm điều chỉnh hoạt động P2P Lending tại Việt Nam

Thứ nhấthành lang pháp lý còn bỏ ngỏ đối với hoạt động P2P Lending tại Việt Nam
Để kiểm soát, giảm thiểu, hạn chế của những rủi ro trên; đồng thời khai thác, tận dụng có hiệu quả lợi ích từ mô hình P2P Lending, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xác định P2P Lending là ngành nghề kinh doanh có điều kiện; và phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động; đồng thời đặt ra các quy định đối với việc triển khai, vận hành mô hình P2P Lending trên thực tế; như: (i) Giới hạn dịch vụ đối với công ty P2P Lending, giới hạn cho vay đối với người cho vay, giới hạn đi vay đối với người vay; (ii) Duy trì hệ thống điện tử an toàn, bảo vệ dữ liệu khách hàng; (iii) Phòng chống rửa tiền và khủng bố; (iv) Trách nhiệm của người đi vay, người cho vay và công ty vận hành nền tảng P2P Lending; (v) Công bố thông tin của công ty P2P Lending; (vi) Quảng cáo, truyền thông; (vi) Một số hành vi bị cấm trong hoạt động P2P Lending; (vii) Hoạt động giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm báo cáo của Công ty P2P Lending[14]. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiện nay chưa có bất kỳ quy định pháp luật nào điều chỉnh cụ thể về hoạt động P2P Lending.
Trong hệ thống các ngành nghề kinh tế Việt Nam được ban hành theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ[15], P2P Lending chưa được thừa nhận là một ngành nghề kinh doanh riêng biệt, do đó, cũng không có cơ sở, để ràng buộc tổ chức vận hành P2P Lending và các bên tham gia vào cơ chế vận hành P2P Lending, phải cam kết thực hiện bất kỳ điều kiện nào (về vốn pháp định; về các giấy phép, các chứng nhận cần có); mặc dù rủi ro có thể gây ra từ hoạt động này, có mức độ ảnh hưởng, phạm vi tác động tương tự như hoạt động tín dụng qua các kênh tín dụng chính thức; hiện đang được quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, được quy định tại Luật Đầu tư năm 2014, sửa đổi bổ sung năm 2017[16] và chịu sự điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010[17] với cơ chế giám sát tín dụng đặc thù, đảm bảo hạn chế và khắc phục triệt để các rủi ro nói trên.

Các công ty P2P Lending ở Việt Nam, hiện nay, mặc dù, đăng ký hoạt động ở các ngành nghề như: (i) Tư vấn tài chính, (ii) môi giới tài chính, hay (iii) Các hoạt động hỗ trợ tài chính (iv) Công ty cầm đồ; nhưng vẫn thực hiện rất nhiều hoạt động tín dụng đa dạng và không chỉ giới hạn ở vai trò trung gian thông tin tài chính cho bên vay và bên đi vay; mà còn trực tiếp thực hiện các hoạt động như: (i) Cho vay trực tiếp đối với người cho vay và người đi vay trên hệ thống P2P Platform của công ty; (ii) Cung cấp mô hình định giá (lãi suất) khoản vay, định giá tài sản đảm bảo để người cho vay quyết định; (iii) Trung gian thanh toán; (iv) Mua/bán nợ trên thị trường thứ cấp (trên cơ sở người cho vay bán lại khoản vay); (v) Thu hồi nợ; (vi) Bảo lãnh khoản vay...

Ngoài ra, do đặc thù hoạt động của công ty P2P Lending là kênh huy động vốn, kênh tiếp cận vốn vay, là trung gian thông tin tín dụng, kết nối nhà đầu tư với người đi vay và các bên liên quan khác tham gia vào thị trường kinh doanh tiền tệ; nên tiềm ẩn nguy cơ rất lớn về vấn nạn rửa tiền; tức là hành vi hợp pháp hóa nguồn gốc các tài sản do phạm tội mà có. Thông qua hành vi rửa tiền, các khoản tiền hoặc tài sản từ vi phạm pháp luật được che giấu nguồn gốc và “biến hóa” thành tiền sạch hay tài sản hợp pháp. Vấn nạn rửa tiền càng trở nên nghiêm trọng hơn nữa, khi hiện nay, công ty P2P Lending không thuộc phạm vi các tổ chức tài chính chịu sự điều chỉnh của Luật Phòng chống rửa tiền năm 2012[18].

Thứ haivai trò của khung pháp lý thử nghiệm

Khung pháp lý thử nghiệm (Sandbox) là cơ chế quản lý thử nghiệm đặc thù cho các sản phẩm tài chính sáng tạo, sản phẩm ứng dụng công nghệ và mô hình kinh doanh mới và thường được áp dụng trong một không gian và thời gian được xác định rõ ràng. Khung pháp lý thử nghiệm này, bắt nguồn từ Vương Quốc Anh, đến nay đã trở thành trào lưu và thông lệ phổ biến, và được áp dụng tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Mục tiêu của Sandbox là tạo môi trường pháp lý thử nghiệm cho các công ty cung ứng giải pháp tài chính mới, qua đó giúp các cơ quan, quản lý định hình được bản chất, quy trình, cũng như các rủi ro tiềm ẩn của các loại hình dịch vụ, từ đó ban hành được khuôn khổ pháp lý, quản lý chính thức cho lĩnh vực này.

Thứ ba, những nội dung pháp lý chủ yếu cần quy định

Để kiểm soát, giảm thiểu triệt để và hiệu quả các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động P2P Lending, đồng thời phát huy được các lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội mà P2P Lending mang lại cho thị trường tài chính, Chính phủ Việt Nam cần phải hoàn thiện sớm Nghị định quy định về cơ chế khung pháp lý thử nghiệm đối với hoạt động công nghệ tài chính, trong đó, quy định về các vấn đề dưới đây:

Một là, P2P Lending phải được quy định là một ngành nghề kinh doanh riêng biệt theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTG về hệ thống ngành kinh tế Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành; đồng thời được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo Phụ lục IV, Luật Đầu tư năm 2020. Bên cạnh đó, SANBOX phải đưa ra được định nghĩa thống nhất và chính xác về P2P Lending, cụ thể: “Hoạt động cho vay trực tiếp giữa bên cho vay (nhà đầu tư) và bên vay dựa trên nền tảng công nghệ thông tin”.

Hai làcông ty cung cấp dịch P2P Lending nên bị hạn chế phạm vi cung cấp dịch vụ, chỉ được thực hiện hoạt động cung cấp nền tảng kết nối người cho vay và người vay dựa trên hệ thống thông tin tín dụng và chỉ thực hiện các dịch vụ hỗ trợ tài chính liên quan, mà không được thực hiện bất kỳ hoạt động cho vay hay cấp vốn trực tiếp nào. Cụ thể hơn, những công ty cung cấp dịch vụ P2P Lending nên được xác định là “trung gian tín dụng”, không phải là “trung gian tài chính”.

Ba là, Sandbox cần thiết lập mức giới hạn khoản tiền vay bên cho vay đầu tư qua hệ thống P2P Lending, cũng như, mức giới hạn khoản tiền vay, mà bên vay có thể vay thông qua hệ thống P2P Lending. Cụ thể, dựa trên mức giới hạn luật định đối với khoản tiền giao dịch thông qua nền tảng P2P Lending ở các quốc gia có GDP tương đương GDP của Việt Nam, bên đi vay chỉ được cho phép cấp các khoản vay không nhiều hơn 150.000 USD và bên vay chỉ được vay không vượt mức 30.000 USD.

Bốn làvì hoạt động P2P Lending làm phát sinh nhiều loại giao dịch dân sự khác nhau; như: (i) Giao dịch giữa công ty P2P Lending và bên vay; (ii) Giao dịch giữa bên cho vay và bên vay; (iii) Giao dịch giữa bên vay và bên cho vay, nên Sandbox cần có những quy định cụ thể và rõ ràng về trách nhiệm hoặc cam kết hoặc bảo đảm của các bên tham gia vào hoạt động P2P Lending, như quy định về yêu cầu bắt buộc về nội dung và hình thức của các hợp đồng liên quan đến P2P Lending, quyền và nghĩa vụ của bên vay, bên cho vay và bên cung ứng dịch vụ vận hành nền tảng P2P Lending.

Năm làcác vấn đề quan trọng khác mà có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn của thị trường tài chính và xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia và hoạt động P2P Lending, như: (i) Nghĩa vụ công bố thông tin của công ty P2P Lending; (ii) Cơ chế bảo mật thông tin khách hàng; (iii) Hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại của công ty P2P Lending; (iv) Phòng chống rửa tiền.
Về nghĩa vụ công bố thông tinSandbox cần quy định danh sách các thông tin tín dụng mà các công ty vận hành nền tảng P2P Lending bắt buộc phải công bố đến các bên tham gia hoạt động P2P Lending; như thông tin về: Thời hạn vay, lãi suất vay, mục đích vay, và xếp hạng tín dụng.

Về cơ chế bảo mật thông tin khách hàng, Sandbox cần phải quy định rõ về: (i) Phạm vi bảo mật các thông tin liên quan đến hoạt động P2P Lending (như: Thông tin về tài khoản ngân hang, tài sản bảo đảm, thông tin cá nhân của bên vay và bên cho vay, xếp hạng tín dụng…); (ii) Trách nhiệm của công ty P2P Lending trong việc bảo mật các thông tin trên; (iii) Những trường hợp những thông tin bảo mật được phép tiết lộ.

Về việc phòng chống hoạt động rửa tiền, Sandbox cần quy định về cơ chế xác thực thông tin cá nhân được cung cấp bởi bên cho vay và bên vay thông qua nền tảng P2P Lending. Ngoài ra, bên cung ứng dịch vụ P2P Lending phải có nghĩa vụ thông báo kịp thời đến Ngân hang Nhà nước Việt Nam về những giao dịch có khối lượng tiền giao dịch cao bất thường, để có thể áp dụng quy trình giám sát đặc biệt đối với những giao dịch này.

Tóm lại, EVFTA đã mang lại cho Việt Nam cơ hội mới để hội nhập sâu rộng hơn với thế giới và đồng thời thu hút được khoản tiền đầu tư lớn vào nền kinh tế VIệt Nam, đặc biệt là vào thị trường tài chính mà Việt Nam đã cam kết mở cửa đối với các dịch vụ tài chính mới. P2P Lending là 1 loại hình dịch vụ tài chính đang phát triển với tốc độ rất nhanh chóng ở Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên, P2P Lending tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ to lớn ảnh hưởng đến sự an toàn của thị trường tài chính, như: (i) Rủi ro mất vốn hoặc chậm trả; (ii) Xâm hại đến bí mật đời tư cá nhân; (iii) Thông tin bất đối xứng; (iv) Rủi ro vận hành; (v) Rủi ro về đạo đức. Bởi vậy, để kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động P2P Lending, việc thiết lập khung pháp lý thử nghiệm để điều chỉnh hoạt động P2P Lending là mang tính cấp thiết./.

ThS. Nguyễn Nam Trung
NCS. Đại học Kinh tế - Luật TP. Hồ Chí Minh

 


[1] Vietnam and Europe Union (2020). Hiệp định thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu. Truy cập tại http://evfta.moit.gov.vn/?page=overview&category_id=5c3ae070-26ed-4c49-b641-5c314a60ce46, trích đọc ngày 13 tháng 7 năm 2020.
 [2] United Overseas Bank (2019). Fintech in Asean - From Start-up to Scale up Report. Truy cập tại https://forms.uob.com.sg/contact/techecosystem/fintech-in-asean-from-start-up-to-scale-up.html,  trích đọc ngày 12 tháng 11 năm 2020.

[3] Vụ chính sách Tiền tệ (2020). Tài liệu tập huấn "Hoạt động cho vay ngang hàng - P2P Lending.

[4] Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2019). Công văn số 5228 b/NHNN-CSTT ngày 8/7/2019 về cho vay ngang hàng.

[5] Chính phủ (2020). Nghị quyết 50/NQ-CP ngày 17 tháng 4 năm 2020 ban hành chương trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

[6] Thủ tướng Chính phủ (2020). Công văn số 5225/VPCP-ĐMDN ngày 29/6/2020 về đẩy mạnh triển khai hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

[7] Cambridge Dictionary, https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/peer-to-peer, truy cập vào ngày 4 tháng 11 năm 2020

[8] Alistair Milne và Paul Parboteeah (2016). Business Model of peer to peer lending. Research Report No.17, 2016.

[9] Richard Gu, Alex Roberts, Eva Wang và Micheal Gu (2016). P2P Lending in China enters into a regulated era. Truy cập từ https://www.linklaters.com/en/insights/publications/asia-news/china-update/2016/p2p-lending-in-china-enters-into-a-regulated-era, trích đọc ngày 20 tháng 11 năm 2020.

[10] Derayah financial (2017). A concept Study on Peer - to - Peer Lending. Truy cập từ https://web.derayah.com/wp-content/uploads/2017/12/concept_study_p2p_lending_17.pdf, trích đọc ngày 18/05/2020.

[11] Eric C.Chaffee and Geoffrey C.Rapp (2012). Regulating online Peer - to - Peer Lending in the Aftermath of Dodd-Frank; In search of an Evolving Regulatory Regime for an Evolving Industry. Washington and Lee Law Review, Volume 69, Issue 2.

[12] Murphy. J. (2016). P2P Lending: Assessing sources of competitive advantage. Melbourne Money and Finance Conferene, June 2016

[13] Nguyễn Văn Hiệu (2018). Cho vay ngang hang – Kinh nghiệm thế giới và hàm ý cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, số 22/2018.

[14] Vụ chính sách Tiền tệ (2020). Tài liệu tập huấn "Hoạt động cho vay ngang hàng - P2P Lending.

[15] Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 6 tháng 7 năm 2018.

[16] Luật Đầu tư năm 2020.

[17] Luật Tổ chức tín dụng năm 2010.

[18] Luật Phòng chống rửa tiền năm 2012.

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin.