Sửa đổi quy định về quản lý thuế đối với sàn giao dịch TMĐT
Theo Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính), về trách nhiệm của chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử (TMĐT) trong việc kê khai, nộp thuế và cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thuế. Tại Nghị định 85/2021/NĐ-CP bổ sung quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, trong đó có quy định chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT có trách nhiệm thông báo nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam của người bán nước ngoài khi tham gia sàn giao dịch TMĐT.
Về việc khai thuế thay, nộp thuế thay đã được quy định khá đầy đủ tại khoản 5 Điều 7 Nghị định 126/2020/NĐ-CP. Tuy nhiên, chưa có quy định về trách nhiệm của chủ sàn giao dịch TMĐT như quy định tại Nghị định 85/2021/NĐ-CP. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung tại Nghị định về quản lý thuế để phù hợp và đồng nhất với Nghị định 85/2021/NĐ-CP về TMĐT.
Về trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân có liên quan, khoản 2 Điều 27 Nghị định 126/2020/NĐ-CP đã quy định trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, đối với các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ TMĐT là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT thì vẫn chưa có quy định rõ về nội dung thông tin phải cung cấp, hình thức và tần suất cung cấp thông tin. Trong khi đó, các thông tin do chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT cung cấp là quan trọng và cần thiết cho công tác quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, dịch vụ thông qua sàn giao dịch TMĐT.
Để khắc phục vấn đề này, dự thảo Nghị định quy định rõ trách nhiệm khai thuế, nộp thuế của chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT.
Theo đó, dự thảo quy định trách nhiệm của chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT khi thực hiện tiêu thụ hàng hóa thông qua đặt hàng trực tuyến trên sàn của mình, thì chủ sàn phải đại diện cho người bán là cá nhân (bao gồm cả trong nước và nước ngoài) để khai thuế, nộp thuế đối với hàng hóa, dịch vụ được bán thông qua sàn.
Đối với các sàn giao dịch TMĐT bán hàng không qua chức năng đặt hàng trực tuyến thì chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho người bán là cá nhân trên cơ sở ủy quyền theo pháp luật dân sự giữa chủ hàng và chủ sàn.
Về trách nhiệm của chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thuế, dự thảo bổ sung khoản 8 Điều 27 Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT đối với những thông tin mà sàn có thể cung cấp để phục vụ công tác quản lý. Hình thức cung cấp thông tin là tự động, trực tuyến, với tần suất là định kỳ hằng quý.
Số thuế tạm nộp của 4 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm
Về quy định tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiêp (TNDN), tạm nộp lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ. Tại điểm b, c, g khoản 6 Điều 8 Nghị định 126/2020/NĐ-CP hiện đang quy định DN phải thực hiện tạm nộp thuế TNDN, tạm nộp lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của 3 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế TNDN, số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ phải nộp theo quyết toán năm.
Nếu tổng số đã tạm nộp của 3 quý đầu năm thấp hơn 75% số thuế phải nộp của cả năm thì DN bị tính tiền chậm nộp tính trên số thuế TNDN, số tiền lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 3 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách Nhà nước.
Thực hiện quy định nêu trên thì đến thời hạn tạm nộp thuế TNDN của quý 3, DN cần ước tính số thuế TNDN phải nộp của cả năm làm cơ sở để xác định số thuế tạm nộp của 3 quý đầu năm. Việc yêu cầu DN ước số thuế phải nộp cả năm trong khi còn 2 tháng nữa mới kết thúc năm là chưa hợp lý về mặt thời điểm nên chưa thực sự tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
Tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 quy định về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế, thời hạn cơ quan quản lý thuế giải quyết hồ sơ, thời hạn hiệu lực của quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế được tính theo ngày dương lịch.
Nhưng trong thực tế phát sinh trường hợp ngày cuối cùng của các thời hạn nêu trên là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ và tại Nghị định 126/2020/NĐ-CP không có quy định về vấn đề này dẫn đến cơ quan thuế, người nộp thuế gặp vướng mắc trong thực hiện.
Để khắc phục vấn đề này, dự thảo Nghị định đã sửa đổi quy định tại điểm b, điểm c, điểm g khoản 6 Điều 8 Nghị định 126/2020/NĐ-CP theo hướng tổng số thuế TNDN, lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ đã tạm nộp của 4 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm.
Trường hợp người nộp thuế nộp thiếu thì phải nộp tiền chậm nộp kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 4 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.
Bỏ quy định về việc vi phạm thời hạn chia cổ tức, lợi nhuận quy định tại điểm c khoản 6 Điều 8 Nghị định 126/2020/NĐ-CP.
Về trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ dự thảo đã Bổ sung khoản 3 Điều 42 của Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế.
Theo đó, thời hạn cơ quan quản lý thuế giải quyết hồ sơ, thời hạn cưỡng chế trùng với ngày nghỉ thì ngày cuối cùng của thời hạn được tính là ngày làm việc liền kề sau của ngày nghỉ đó.