Nhãn hiệu – Từ vốn trí tuệ cho đến tài sản trí tuệ

Ky Anh

(PLBQ). Nếu như trước đây, tài sản hữu hình chiếm phần lớn giá trị của doanh nghiệp, thì trong nền kinh tế tri thức hiện nay, chính vốn trí tuệ lại góp phần nhiều trong việc quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.

Khái niệm “vốn trí tuệ” (intellectual capital)

Vốn trí tuệ (intellectual capital) là một khái niệm khá mới mẻ, ra đời ở các nước phát triển từ khoảng hơn hai mươi năm nay, sau khi nhiều chuyên gia nhận thấy rằng trong nhiều trường hợp, giá trị thị trường của doanh nghiệp (market value) lại cao hơn hẳn giá trị ghi trên sổ sách (book value).

Sự chênh lệch này được giải thích bằng khái niệm “vốn trí tuệ”. Các nhà nghiên cứu định nghĩa khái niệm vốn trí tuệ theo những cách khác nhau. Vốn trí tuệ có thể được hiểu là một phần tài sản vô hình trong doanh nghiệp, ngoài những tài sản trí tuệ (bằng sáng chế, phát minh; nhãn hiệu; bí mật kinh doanh…); vốn trí tuệ còn là sự tổng hợp của kiến thức, kinh nghiệm, các mối quan hệ, quy trình làm việc, sự đánh giá từ thị trường và khách hàng (Steward, 1997). Tất cả các yếu tố này có thể được sử dụng để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp cần có chiến lược quản trị vốn trí tuệ phù hợp để vừa phát triển, vừa khai thác và khám phá nguồn vốn này của doanh nghiệp.

Vốn trí tuệ có thể được hiểu là một phần tài sản vô hình trong doanh nghiệp. (Ảnh: Internet)

Trong “vốn trí tuệ”, có thể nói nhãn hiệu là một yếu tố chủ chốt. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau (khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005). Đây chính là một tài sản trí tuệ đặc biệt, không thể thiếu của doanh nghiệp. Nhãn hiệu thu hút sự chú ý của khách hàng, làm khách hàng có thể phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, nó còn có tác dụng thu hút đối tác, đầu tư cũng như góp phần tạo động lực làm việc cho nhân viên doanh nghiệp.

Câu chuyện “định giá” nhãn hiệu

Một cách tổng quát, việc định giá nhãn hiệu có thể nhằm một trong các mục tiêu chủ yếu sau đây:

1. Định giá trong chuyển giao nhãn hiệu: khái niệm chuyển giao theo pháp luật sở hữu trí tuệ bao hàm hai tình huống : chuyển nhượng (assignment) toàn bộ quyền sở hữu nhãn hiệu hoặc cấp quyền sử dụng nhãn hiệu (licensing) để thu hồi một dòng tiền bản quyền (royalty). Đối với bên nhận chuyển giao, một nhãn hiệu mua lại hoặc được cấp li-xăng trong một thời gian nhất định có thể được hạch toán như một tài sản cố định vô hình với thời hạn khấu hao thông thường tối đa là 20 năm.

2. Định giá trong báo cáo tài chính: với mục tiêu trực tiếp là đưa giá trị nhãn hiệu vào bảng cân đối tài sản. Điều này đòi hỏi phải tuân thủ các chuẩn mực thẩm định giá và các chuẩn mực kế toán hiện hành. Lần đầu tiên tại Việt Nam, Khoản 2 Điều 32 Nghị định 103/2006/NĐ-CP đã đề cập đến khả năng hạch toán nhãn hiệu do doanh nghiệp tự tạo ra như một tài sản cố định vô hình. Một mục tiêu tài chính quan trọng khác là định giá trong phá sản hoặc tái cấu trúc doanh nghiệp, bao gồm cả tiến trình cổ phần hóa : trong rất nhiều trường hợp, giá trị của các tài sản vô hình trong đó có giá trị nhãn hiệu có thể bị bỏ qua. Ngoài ra, việc định giá còn có thể nhằm chứng minh hoặc bảo đảm khả năng vay vốn của chủ sở hữu, phục vụ phương án định thuế của các cơ quan thuế vụ.

3. Định giá để xác định thiệt hại gây ra do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu: chủ yếu là mức bồi thường thiệt hại đối với phong cách (brand identity) hoặc hình ảnh (brand image) của nhãn hiệu, khác với việc bồi thường cho các tổn thất về doanh thu và lợi nhuận.

Doanh nghiệp cần hiểu giá trị nhãn hiệu cũng như phải biết cách xác định giá trị của nhãn hiệu. Khi mới đăng ký bảo hộ, rõ ràng là nhãn hiệu chỉ có giá trị tương ứng với chi phí đăng kí bảo hộ và thiết kế nhãn hiệu, nhưng cùng thời gian, giá trị nhãn hiệu sẽ tăng lên nhờ vào sự thành công của sản phẩm, cũng như nhờ vào quảng cáo hay nhờ vào các hoạt động giao dịch.

Khi phải định giá nhãn hiệu, doanh nghiệp sẽ cần sự trợ giúp của các chuyên gia về định giá nhãn hiệu cũng như kiểm toán. Đầu tiên, các chuyên gia phải tìm hiểu nhãn hiệu được bảo hộ hay không, được bảo hộ ở những đâu, trong nước hay ở nước ngoài, liệu có những đăng ký bảo hộ nào trước đó có thể gây cản trở cho việc bảo hộ nhãn hiệu hay không, giải pháp có thể sử dụng để bảo hộ nhãn hiệu... Tất cả những yếu tố pháp lý này đều có tác động tới giá trị nhãn hiệu. Ngoài ra, để đánh giá giá trị nhãn hiệu, các chuyên gia sẽ phải dựa vào các thông tin thương mại, kế toán, tài chính... liên quan đến nhãn hiệu. Dựa trên các thông tin này, các chuyên gia sẽ thực hiện việc định giá nhãn hiệu.

Phương pháp định giá nhãn hiệu của InterBrand  (Interbrand's brand valuation methodology)

Interbrand là một tổ chức có uy tín hàng đầu về định giá nhãn hiệu, được thành lập từ năm 1974 và hiện có 34 văn phòng đặt tại hơn 20 quốc gia khác nhau. Thông tin định giá hàng năm của Interbrand không nhằm xếp hạng các nhãn hiệu nổi tiếng nhất thế giới mà là đánh giá các nhãn hiệu sinh lợi lớn nhất cho chủ sở hữu doanh nghiệp.

Công ty định giá nhãn hiệu InterBrand (Ảnh: Internet)

Một cách tổng quát, phương pháp định giá của Interbrand bao gồm 3 bước chính :

1. Phân tích tài chính: bắt đầu từ việc tính toán doanh thu từ nhãn hiệu, là doanh thu quá khứ và hiện tại của các dòng sản phẩm (hàng hoá và/hoặc dịch vụ) mang nhãn (branded products) trên từng thị trường. Từ đó, tiến hành khấu trừ các chi phí sản xuất, kinh doanh, thuế, lãi suất… tương ứng để có được phần doanh lợi từ tài sản vô hình (intangible earnings), xuất phát từ các ưu quyền theo hợp đồng, từ ưu thế của sáng chế hay kiểu dáng công nghiệp độc quyền, từ hiệu quả của quy trình quản lý hay hoạt động R&D…

2. Xác định tỷ lệ đóng góp của nhãn hiệu (role of brand) trong doanh lợi từ tài sản vô hình: Ở góc độ quản trị, mức độ tác động của nhãn hiệu đến quyết định chọn mua của người tiêu dùng tại điểm bán được đo lường qua một số nghiên cứu thị trường cụ thể để xác định tỷ lệ đóng góp của nhãn hiệu tại thời điểm khảo sát. Interbrand đã thiết lập một cơ sở dữ liệu về mức tác động của nhãn hiệu trong mỗi ngành công nghiệp qua hơn 4000 đánh giá trước đó trong 20 năm qua, góp phần kiểm chứng tỷ lệ vừa được xác định. Từ đó, tỷ lệ đóng góp của nhãn hiệu được áp vào dòng doanh lợi kỳ vọng từ tài sản vô hình để tính ra dòng doanh lợi kỳ vọng từ nhãn hiệu (brand earnings) trong 05 (năm) năm tiếp theo;

3. Đo lường sức mạnh của nhãn hiệu (brand strenght): là thông số xác định khả năng mà nhãn hiệu có thể tiếp tục hấp dẫn khách hàng (qua ý hướng trung thành của khách hàng, mức độ tái chọn mua nhãn hiệu…) và theo đó là khả năng bảo vệ dòng doanh lợi kỳ vọng. Ở khía cạnh tác nghiệp, đây là bước xác định tỷ lệ chiết khấu dòng tiền (discounted rate) để hiện tại hóa giá trị của dòng doanh lợi kỳ vọng từ nhãn hiệu, bao hàm hai nhân tố. Nhân tố thứ nhất là mức độ mất giá của đồng tiền, xác định theo lãi suất trái phiếu dài hạn của chính phủ trên thị trường sở tại. Nhân tố thứ hai là mức độ rủi ro của bản thân dòng doanh lợi kỳ vọng, phụ thuộc vào sức mạnh của nhãn hiệu. Sau khi xác định được tỷ lệ chiết khấu dòng tiền, dòng doanh lợi kỳ vọng được hiện tại hóa giá trị và cộng gộp để có được giá trị nhãn hiệu (brand value) tại thời điểm khảo sát.

Thực tiễn pháp luật Việt Nam

Dưới góc độ pháp lý, nhãn hiệu là một “tài sản” của doanh nghiệp. Cụ thể, luật Việt Nam quy định rằng “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” (Điều 105 Bộ luật dân sự 2015), đồng thời định nghĩa quyền tài sản là “quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác” (Điều 115 Bộ luật dân sự 2015).

Ở Việt Nam, vấn đề xác định giá trị nhãn hiệu ở Việt Nam không còn là mới mẻ. Đặc biệt, kể từ năm 2014, hoạt động định giá nhãn hiệu trở nên phổ biến hơn khi Điều 34 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định tài sản góp vốn doanh nghiệp có thể là “quyền sở hữu trí tuệ”, bao gồm nhãn hiệu. Liên quan tới vấn đề định giá nhãn hiệu, trước đây, một số thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính chỉ đề cập tới phương pháp tính chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra để có được nhãn hiệu, nhưng từ Thông tư 06/2014/TT-BTC ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá số 13, các phương pháp khác đã được đưa vào, giúp hướng dẫn định giá chính xác hơn. Cho dù pháp luật Việt Nam quy định: tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp có thể được các thành viên, cổ đông sáng lập tự định giá theo nguyên tắc nhất trí,  tuy nhiên, việc định giá nên được thực hiện bởi một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp, tránh tình trạng định giá sai, dẫn tới việc bị “đẩy giá” hoặc “ép giá” nhãn hiệu. 

Hà Trung

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin.